Kinh Kim Cang, bản dịch từ Hán sang Việt
của Hòa Thượng Thích Thanh Từ (Thiền viện Thường Chiếu, Bà Rịa)
Bạn Huyền Trân viết vào Guestbook của Bu như sau:
.....Để vài hôm cho nhạt nhòa không khí Tết, rồi em sẽ được nghe những suy nghĩ về kinh Kim Cang qua lăng kính của Bác Bu nhé.
Trước hết phải nói với Huyền Trân và bạn bè là Bu không phải Phật tử, cũng chưa có ý định quy y tam bảo, chỉ đọc sách Phật cho biết vậy thôi. Đạo Phật là một nền giáo dục trí huệ để nhận biết rõ toàn triệt nhân sinh và vũ trụ. Học thuyết của Khổng Tử chỉ đề cập đến một đời người, từ khi sinh ra cho đến khi chết. Còn Phật pháp là nền giáo dục thông cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Bởi thế người ta không thể lấy cái trí học thông thường để xem xét, mà phải đặt mình vào một không gian khác, một hệ quy chiếu khác mới hiểu được Phật pháp. Kinh Kim Cang (cũng gọi là kinh Kim Cương) là một trong những đỉnh cao của của tư tưởng Thích Ca. Đây là quả bom nổ, làm tan tành hai ngọn núi Kiến Chấp của chúng sinh. Cho nên Bu không dám nói là hiểu hết nó mà thuần túy tóm tắt dựa vào bản dịch của thầy Thích Thanh Từ. Do phải dùng nhiều chuyên ngữ nhà Phật khi tóm tắt nên Bu chú ý vào phần chú thích. Có thể với bạn đã am tường Phật pháp thì chú thích này thừa, nhưng Bu nghỉ rằng thừa vẫn hơn thiếu.
Sau khi đọc hết 32 đoạn kinh Kim Cang ta có thể tóm tắt các ý chính như sau:
1- Ta, người, chúng sinh và tất cả mọi pháp (1) đều vô ngã (2)
2- Tất cả những gì ta thấy và biết được bên ngoài cũng như bên trong tâm (3) ta, kể cả Phật pháp đều là tướng (4), không thể chấp (5)
3- Lìa tất cả tướng tức là không chấp vào bất kì điều gì
4- Tướng tuy là vô ngã nhưng không thể đoạn diệt tướng vì trong tướng có tánh, tướng mất thì tánh mất
5- Tuy tướng không thể chấp, nhưng ta sống trong thế giới danh tướng (6), nên cứ phải tạm dùng danh tướng để mà nói với nhau và để hành động, như bố thí hay diệt độ (7)
6- Các pháp lành đều nên làm nhưng làm mà không chấp vào đâu, không chấp cả phước đức và vô thượng chánh đẳng chánh giác(8)
7- Kinh kim cang có thể tóm vào một câu cuối cùng “Không chấp các tướng như nhất động” . Nếu lại muốn tóm tắt câu này vào một chữ thì đó là “xả”(9)
Chú thích:
(1) Pháp: Là một khái niệm quan trọng của đạo Phật có nhiều nghĩa:
- Quy luật bao trùm toàn thể vũ trụ, nhất là quy luật tái sinh dưới tác động của nghiệp.
- Giáo pháp của đức Phật, là người đã giác ngộ quy luật nói trên. Đó là giáo pháp về sự thật tuyệt đối. Người phật tử khi đã quy y tam bảo trong đó có quy y “pháp” chính là chấp nhận giáo pháp này.
- Giới luật trong đời sống tu hành
- Nội dung tâm thức, đối tượng của mọi quán chiếu, tư tưởng, sự phản ánh của sự vật lên tâm thức con người
- Những thành phần dựng lập lên thế giới hiện hữu, thuyết của Phật giáo thay thế cho tư tưởng “vật chất”, “nguyên tử” của triết học châu Âu
Tổng quát lại, người ta có thể hiểu pháp là “tất cả những gì có đặc tính của nó - không khiến ta lầm với cái khác - có những khuôn khổ riêng của nó, để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái niệm về nó” (theo Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo, lời dịch của Thích Nhất Hạnh)
(2) Vô ngã: Quan điểm vô ngã là một giáo pháp quan trọng của đạo Phật, cho rằng không có một ngã, một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong sự vật. Theo đạo Phật, cái ngã - cái “tôi”- cũng chỉ là tập hợp của “năm nhóm” gọi là ngũ uẩn, nó luôn luôn thay đổi, mất mát, và “tôi” chỉ là một sự giả hợp gắn liền với cái khổ. (Nói ngắn gọn về ngũ uẩn: Là năm nhóm tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, ngoài ngũ uẩn đó ra không có cái gì gọi là cái “ta”. Năm nhóm là: 1) sắc: chỉ thân và sáu giác quan, 2) thụ: tức là cảm giác, 3) tưởng: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị...4) hành: là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, 5) Thức: là bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)
(3) Tâm: Là thuật ngữ quan trọng của đạo Phật có rất nhiều nghĩa (chỉ nói lên vài nghĩa cần thiết và dễ hiểu)
- Tâm được xem đồng nghĩa với Mạt na (thức suy nghỉ và phân biệt) và Thức, (như đã nói ở mục 5 trong ngũ uẩn). Tâm chỉ toàn bộ hoạt động của tâm trí.
- Trong A tì đạt ma câu xá luận (là bộ luận quan trọng nhất của Nhất thiết hữu bộ do Thế Thân soạn vào thế kỉ thứ 5 sau cn) thì tâm được xem như một thể riêng biệt, trên thể đó thế giới hiện tượng xuất hiện
(4) Tướng: Là hình thù bên ngoài, được nhận biết do một trong sáu giác quan của thức (mục 5 trong ngũ uẩn)
(5) Chấp: Là cầm, nắm, giữ, cũng có nghĩa khư khư giữ lấy ý kiến sai lạc của mình gọi là chấp nệ, chấp nhất, chấp trước. Vì chấp nên không thông đạt, chẳng sáng suốt, chẳng tin tưởng vào chánh pháp, chẳng nghe theo lời lành của bậc thiện tri thức.
(6) Danh tướng: Tên gọi của tướng (xem mục (4): Tướng). Đừng nhầm với danh tướng là tên các tướng cầm quân trên trận mạc
(7) Diệt độ: Được dịch từ hai chữ Niết Bàn (nivana), đồng nghĩa với tịch diệt, bất sanh, vô vi, an lạc, giải thoát.
* Diệt là tiêu trừ nhân quả của vòng sinh tử, luân hồi, trừ diệt cái qủa của các mối khổ: Chúng khổ đều dứt, chẳng sinh ra nữa
* Độ là qua khỏi, tức qua khỏi bến mê mà đến bên lành, qua khỏi nguồn sinh tử, bên trầm luân.
(8) Vô thượng chánh đẳng chánh giác: Là sự giác ngộ đến cùng tột, chỉ một vị Phật.
(9) xả: Là xả bỏ, một trong những đức hạnh quan trọng trong đạo Phật. Xả có 2 nội dung:
a) Tình trạng không vui không buồn, độc lập với vui buồn
b) Tâm thức vững chắc, nằm ngoài mọi phân biệt. Trong kinh sách đạo Phật người ta thường hiểu theo nội dung này.
Xả là một trong bảy giác chi và bốn phạm trú (10) Bảy giác chi là nhóm thứ 6 trong 37 bồ đề phần. ( Bồ đề phần là những điều cần thiết để đạt bồ đề) 37 phần này được chia thành 7 nhóm như sau
(1)- Bốn niệm xứ
(2) - Bốn tinh tiến
(3) - Bốn Như ý túc
(4) - Năm căn
(5) - Năm lực
(6) - Bảy giác chi (cái ta đang nói đến )
(7) - Bát chánh đạo
(4+4+4+5+5+7+8 = 37)
Bảy giác chi gồm:
(1) pháp (phân tích đúng sai...)
(2) Trạch tinh tiến
(3) Hỉ
(4) Khinh an
(5) Niệm
(6) Định
(7) Xả
(10) Bốn phạm trú cũng được gọi là tứ vô lương tâm. Bốn phạm trú là: Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỉ vô lượng, và Xả vô lượng, nói gọn là TỪ BI HỈ XẢ.