Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010

Trong thực tế, quan sát giới động vật hoang dã nói chung, người ta chưa thấy những lãnh đạo các bầy đàn này có biểu hiện lợi dụng chức quyền để bắt các thành viên trong bầy đàn phải cống nạp hay hối lộ! Dù là thú hay là chim, thì con vật đầu đàn cũng vẫn sống cuộc sống như đồng loại, gần đồng loại, cùng đồng loại; sống trong bầy đàn, vất vả kiếm sống như bầy đàn, đói no cùng bầy đàn. Không ăn trên ngồi chốc, không nhà lầu xe hơi, không ngai vàng đế đô. Qua thế đủ thấy rằng, lãnh đạo là một vị trí rất cần thiết cho sự tồn vong của mọi bầy đàn, mọi cộng đồng. Tự do như loài chim cũng vẫn phải có con chim đầu đàn. Loài người là động vật cấp cao, phát triển với tốc độ lớn, lại càng cần sự lãnh đạo hơn bất kì loại động vật nào trong tự nhiên. Nhưng loài người đôi khi thua các loại động vật khác ở đức hy sinh vì cuộc sống cộng đồng. Không ít người cứ leo lên vị trí lãnh đạo là chỉ muốn hưởng thụ hơn người, quyền lực hơn người. Tuần VN

Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2010

HẦU CHUYỆN BÁC BOBI

 

                          Anh nhà quê (Bu) lên thành phố!

 

 

Lang thang vào http://thovanhoangkim.blogspot.com  đọc bài “Bác Hồ rất ít trích dẫn”,  đến gần cuối bài thì sửng sốt thấy anh Hoàng Kim trích nguyên một Entry của Bu, cùng với “còm” của bạn bè hồi mồ ma Zà hu 360.  Bài của Bu có tựa đề “HẦU CHUYỆN BÁC BO BI”. Mấy năm rồi, nay đọc lại những gì mình viết thấy lòng dạ sao mà bồi hồi.  Zà hu 360 thuở ấy vui như tết, vậy mà bạn bè nay tứ tán đâu hết. Hai người đẹp TKO và Catulaho giả từ blog, bác BOBI thay tên đổi họ, mai danh ẩn tích đâu bên plus, anh chàng Malieng trôi dạt tận đẩu tận đâu nay mới lò dò về với Multiply, đang nghỉ lấy sức. Trong  bài “Bác Hồ rất ít trích dẫn” Bu lược bớt phần của anh Hoàng Kim, chỉ tái bản lại phần Bu viết cùng với còm  của bạn bè hồi ấy, để nhớ lai một thời và để bạn bè “mân ti” ngày nay đọc chơi. 

 

* *

*

Comment ở blog Bulukhin, bác BO BI viết:  “Mấy thanh niên ngồi quán bia thỉnh thoảng hát: “Không có việc gì khó/ chỉ sợ tiền không nhiều...”. Bây giờ TKO hát: “Không có việc gì khó/ chỉ sợ mình không liều...” BOBI biết hình như có một bài thơ chữ Hán của người xưa nói về ý chí dời non lấp biển, nay được người đời dịch ra với nhiều dị bản vui vui. Bác Bu là người am hiểu thư tịch cổ, mong bác cố gắng tìm lại bài thơ chữ Hán đó để mọi người cùng đọc và suy ngẫm”.

@BULUKHIN: Mặc dầu biết phận mình văn dốt võ dát, nhưng được bác BOBI đã tin tưởng hỏi thì Bu tui cũng xin thưa lại dăm ba điều. Có gì chưa đúng mong các bạn chỉ giáo cho. Theo chỗ Bu biết thì thời Bắc Tống có ông Uông Chu làm ra loại thơ bốn câu, mỗi câu năm chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt). Sau này người Nam ta tham khảo thể thơ đó soạn ra sách “Ấu học ngũ ngôn thi” (thơ năm tiếng dạy trẻ học) còn gọi là Trạng nguyên thi, gồm 278 câu nói về lợi ích sự học tập và giấc mơ đỗ đạt, xin dẫn ra vài câu:

 

Tự tiểu đa tài học

Bình sinh chí khí cao

Biệt nhân hoài bảo kiếm

Ngã hữu bút như dao

(Tài năng học tập bộc lộ từ nhỏ

Xưa nay đều có chí khí

Người luyện võ chỉ thích bảo kiếm

Còn ta văn bút bén như dao)

 

Và để dạy cho trẻ ý chí đội đá vá vá trời, dời non lấp biển “Ấu học ngũ ngôn thi” có bài:

 

Tạc sơn thông đại hải

Phá thạch bố thanh thiên

Thế thượng vô nan sự

Nhân tâm tự bất kiên

(Đục đá thông ra biển

Đội đá vá trời xanh

Trên đời không việc khó

Chỉ sợ lòng không kiên)

 

Trong đó, hai câu “trên đời không việc khó/ chỉ sợ lòng không kiên” được người Nam ta biến tấu ra nhiều dị bản như “Không có việc gì khó/ chỉ sự tiền không nhiều” hoặc “không có việc gì khó /chỉ sợ mình không liều” như bác đã dẫn ra. Nhân thể cũng nói thêm, sách “Tấm lòng của Bác Hồ”, nhà xuất bản Công An Nhân dân năm 2005 có dẫn ra một đoạn như sau: “Năm 1950, trong một lần gặp gỡ anh em Thanh niên xung phong làm đường ở đèo Khế Thái Nguyên Bác Hồ đã đọc tặng mấy câu:

 

Không có việc gì khó

Chỉ sự lòng không bền

Đào núi và lấp biển

Quyết chí cũng làm nên

 

Bốn câu thơ ấy tuy mượn ý “Thánh hiền” nhưng đã được kiểm nghiệm trong thực tế cuộc sống của Bác Hồ mấy chục năm trước đó”. Hai chữ Thánh hiền được nhà xuất bản Công an Nhân dân cho vào ngoặc kép không hiểu có dụng ý gì. Hay là họ biết rõ xuất xứ bốn câu thơ ấy nhưng cứ muốn nó mang một nội dung cao siêu của thần thánh??.

@ MA LIÊNG:  Người hỏi hay mà người trả lời cũng hay, giá bác Bu đưa lên nguyên bản chứ Hán cho bọn em ngắm nghía (chứ không phải để đọc) thì thú vị biết mấy.

@TKO: Tạc sơn thông đại hải/Phá thạch bố thanh thiên/Thế thượng vô nan sự/ Nhân tâm tự bất kiên!...Bài thơ rất hay bác Bu nhĩ!

@NGUYENTHUTHUY 1401: “Trên đời không việc khó/chỉ sợ lòng không kiên”. Muôn sự thành hay bại đa phần đều do lòng người cả bác nhỉ? Những câu như “có sức người sỏi đá cũng thành cơm” hay “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” cũng đều ca ngợi sự kiên trì, bên bỉ của con người. Cho em gửi lời thăm cu Rơm, chúc cháu hay ăn chóng lớn!

@CATULAHO: Hai chữ Thánh hiền trong ngoặc kép, theo em nhà xuất bản 

Công an Nhân dân muốn nói ý ấy không phải của thánh hiền, họ không muốn nói ra sách Ấu học ngũ ngôn thi đó thôi. Còn vì sao như thế thì chỉ có các bác ấy biết. Hihihi.

@BOBI:  Cảm ơn bác Bu đã tìm ra được bài thơ trong “Ấu học ngũ ngôn thi’. Vì bác Bu không kịp đưa chữ Hán vào nên BOBI mạo muội thử đưa vào (theo yêu cầu của Malieng). Nếu có chữ nào sai, bác Bu hiệu đính sau

 

鑿山通大海
鍊石補青天
世常 無人事
人心自不堅

 

Phải thừa nhận rằng, ngoài nền triết học mà đỉnh cao là kinh dịch, thì nền văn học hàng ngàn năm trước đây của Trung Hoa cũng rất đồ sộ. Các bậc tiền nhân nước ta qua hàng thế kỉ và với kiến thức nho học uyên thâm đã tiếp thu và truyền thụ cho nhiều thế hệ con cháu. Tuy nhiên khi ngâm vịnh và đặc biệt khi viết thành sách các cụ đã không đề xuất xứ (chủ yếu là thơ) nên hậu duệ vẫn nhầm tưởng là của các cụ. Thậm chí có người biết nhưng vẫn lờ đi (!?)  Thiền sư Lê Mạnh Thát đã chỉ ra được nhiều bài như vậy, hoặc nhiều nhà nghiên cứu khác đã phát hiện khoảng hai phần ba nội dung trong “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn có xuất xứ từ Trung Quốc.  Luật nay gọi đó là vi phạm bản quyền. Dân gian gọi đó là đạo văn. Điều đáng xấu hổ, đạo văn ngày nay là một trong những cách tiếp cận  của giáo dục Việt Nam ta.: Từ cấp 1, các cháu đã làm văn với các bài văn mẫu. Nhiều luận án cử nhân, tiến sỹ, cũng copy gần như nguyên văn của người bảo vệ trước. Có giáo sư đầu ngành bê gần nguyên văn luận án của sinh viên, thay đề mục và đề tên mình vào để in thành sách. Nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành đều dịch thuật của nước ngoài (dù dịch sai nhiều).  Nhưng thôi, đấy là chuyên của thiên hạ. Còn khi nàng Cách Cách xinh đẹp TKO hát: “ Không có việc gì khó/ Chỉ sợ mình không liều”, BO BI cảm thấy hứng khởi, nỗi máu Lục văn Tiên định liều một phen, nhưng rồi nghĩ mình cầm tinh con thỏ nên chột dạ, hóa ra:

    Đời có nhiều việc khó

    Mà mình không nên liều

    Sợ đang cầm tinh con thỏ

    Lai biến thành tinh heo.

 

@BULUKHIN:   Bác BOBI kính mến, tôi đã đọc lại cái còm của bác vài lần và còn muốn đọc nữa. Bác nói khéo quá, kín kẽ quá, ai ngứa miệng muốn gây sự  với bác cũng không làm gì được. Tôi đang la cà trên đường phố Sài Gòn, vào hiệu nét dọc đường  máy móc tậm tịt, nên không làm sao mà nói cho hết được. Câu thứ 4 của bài thơ chữ Hán  bác chép lên có nhầm hai chữ, nguyên bản “thế thượng vô nan sự” 

( ) bác viết ra  “thế thường vô nhân sự” (世 常 無人事).  Một lần ở đâu đó tôi có nhắc đến sách Vân Đài loại ngữ của cụ Lên Quý Đôn,  Đúng như bác nói, cụ Lê hể mở miệng ra là y như ông này nói, ông kia nói, toàn những ông bên Tàu nói, chứ không thấy ông nói được mấy cả.  Và ngay phần ông nói không hiểu ông có “đạo” văn ai hay không,  hôm nào tôi phải xem lại đã, chứ nói hồ đồ về các cụ là không được.  Mà bác ạ, cuộc đời đa đoan lắm, ai đó nói “ăn cắp cái lưỡi câu thì bị vào tù, ăn cắp một quốc gia được gọi là vua”. Cho nên bác xem, vua chúa xưa nay thiếu gì kẻ ăn cắp.

Riêng với chú Malieng, chú mày “ngắm nghía” bản chữ Hán của bác BOBI (mà Bu đây có hiểu chỉnh lại hai chữ) đã được chưa? Khỏi phải chép lại nhé.  

@TKO:  Em chào cả nhà ạ! Cứ cái đà này em lại phải hót nhiều nhiều mấy câu liều mạng....Bu và BOBI cất giọng hòa âm hay như thế này thì em sẽ được mở mang thêm kiến thức ạ!  Cảm ơn chuyên gia ngôn ngữ Buluk và Thỏ BOBI nhé.

P/S: Đọc thơ comt của BOBI chết cười.

@NGANHA: Dạo quanh và dừng lại lại đây đọc những lời trao đổi của mọi người, NH thấy thú vị lắm lắm. Vốn không hiểu về chữ Hán nhưng lại rất háo hức lắng nghe, nên xin phép cho NH được ngồi im thỉnh giáo, được không ạ ?

@PNH: Chữ nghĩa xưa nay khó như thế, bể học bao la nên chỉ dám đứng ngoài hóng chuyện. Tuần tới tôi sẽ ghe bác Bu kéo đi chùa chiền, café nghe bác kể chuyện xưa nay nữa.

@THIEN PHONG: 世上无难事,人心自不坚  nguyên câu là Thế thượng vô nan sự, nhân tâm tự bất kiên. Chứ không phải là thế thường. .·陈元靓《事林广记》第九卷:世上无难事,人心自不坚。Câu này xuất  hiện trong sách “Sự lâm Quảng kí” quyển 9 của Trần Nguyên Tĩnh (?!) thời Tống, về sau được đưa vào trong Thần đồng thi của Uông Chu. Mời các bác vào Web này đọc:  http://zhidao.baidu.com/question/59294953.html  là có hết toàn bản. Văn bản Thần đồng thi và Trạng nguyên thi có nhiều dị đồng, do mỗi thời tam sao thất bản, thêm thắt vào mà khác. Uông Chu 汪洙 tên tự Đức Ôn 德温

người Ninh Ba là một học giả nổi tiếng thời Bắc Tống. Nguyên câu trích trong bài Thần đồng thi là:  凿山通大海 鍊石补青天 世上无难事 人心自不坚.

Đấy , các bác châm chước cho, và có gì chưa hiểu, qua blog tôi nhé!

@TORO: Do cách học của ta xưa, cứ dùng của người trước lắp vào thành bài của mình, lâu dần quên mất bản gốc, tưởng của mình cả. Chả thế mà vô số giai thoại của các danh nhân nước ta đã có sẵn trong sách tiếu thoại của Tàu từ bao giờ, ví dụ như Điếu văn chữ Nhất của Mạc Đỉnh Chi, câu đối “Quân ân thần khả báo” của Cao Bá Quát.

@BULUKHIN (Viết tối Noen 24.12.2010)

Tôi thấy phải nói thêm vài dòng về bài thơ chữ Hán mà bác BOBI và bác THIENPHONG trích dẫn. Hai bác đều viết câu thứ hai là  “Luyện thạch bố thanh thiên” (鍊石補青天) trong khi đó “Ấu học ngũ ngôn thi” mà tôi dẫn ra lại viết “Phá thạch bố thanh thiên” (石補青天). Có lẽ “phá” (破) hợp lý hơn. Người ta đập đá to thành đá hộc để dễ vận chuyển trong công việc vá trời.  Chứ  chưa thấy ai luyện đá cả. Bác BOBI viết chữ Phồn thể, bác THIENPHONG viết chữ giản thể nên một số bạn có thể bở ngỡ. Mời các bạn chỉ giáo thêm.



 

         
Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2010

Một trong những câu nói về Hà Nội hay nhất độc đáo nhất trong dịp Ngàn năm Thăng Long thuộc về nhà văn Nguyên Ngọc. Ông bảo: Hà Nội của ta đẹp thật, đẹp khủng khiếp, đẹp đến mức người ta đã phá nó ghê gớm, phá nó riết ráo thế mà nó vẫn còn đẹp như vậy.

Đọc tiếp ...

KIẾP NẠN THỨ 81

 

Sáng nào Bu tui cũng rủ rê bạn bè lối xóm đi dọc kè bờ sông thay vì tập khí công dưỡng sinh như bạn GRAPH gợi ý. Đi chán thì quần tam tụ tứ nơi mấy ghế đá vườn hoa để tán chuyện trên trời dưới đất. Anh nào cũng có chuyện kể để cười. Thường là những chuyện đầu Ngô mình Sở không có đầu đề, do anh này đọc đâu đó, anh kia nghe đâu đó, gom góp biên tập lại. Mời các bạn đọc chơi Kiếp nạn thứ 81.

 

Thầy trò Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh,  thấm thoắt đã hai mươi năm, trải qua 80 kiếp nạn.  Công việc hoàn thành, thầy trò phấn khởi hộ kinh về cố quốc.  Đang mùa đông, đường qua Hi Mã Lạp Sơn phủ đầy băng tuyết, thầy trò Đường Tăng buộc phải đi vòng. Đến một nước nọ có biên giới với Tàu, thấy trên cổng thành ghi bốn chữ ĐẠI VỆ NAM QUỐC, Đường Tăng quay lại hỏi các trò:

- Đây có phải là nước Vệ danh tiếng, chính sự yên bình, vua sáng tôi hiền, luật pháp nghiêm minh, sản vật phong phú, nhân dân sống trong lục hòa,  khắp chốn cùng quê tươi vui lời ca tiếng hát đó không ?

Ngộ Không phi thân về phía kinh thành, một lát quay về nói:

- Thưa thầy, đúng là nước Vệ mà thầy nói đó ạ.

Thầy trò kéo nhau đến Hải quan phủ, ngỏ ý xin đổi điệp văn. Quan coi phủ nói:

- Từ Tây Trúc về Tàu sao các ngài không đại nhân hành đại lộ mà phải mua đường qua nướcVệ ?

 Đường Tăng trình bày việc đi thỉnh kinh, và nỗi khó khăn không trèo qua được núi cao đang mùa đông băng giá, phải đi nhờ qua quí quốc.

 Quan thản nhiên nói:

-  Ngài nói vậy nhưng chúng tôi chưa nghĩ vậy, mời các ngài hãy chờ chúng tôi kiểm tra hư thực ra sao đã. Nếu không có gì khả nghi chúng tôi sẽ làm thủ tục cho các ngài đi.

Đường Tăng biết nhập gia tùy tục, ngài vui vẻ chấp nhận để quan nước Vệ làm phận sự kiểm tra.  Ngày đầu tiên Bát Giới bị quan gọi lên hỏi:

- Anh tên gì

- Trư Bát Giới

Riêng phần trích ngang lí lịch Trư phải trình bày mất hai ngày, đến ngày thứ ba quan đổi giọng hỏi:

- Tại sao tai và mũi của mày to thế, có phải để nghe lén và ngửi mùi nước tao không?

Bát giới vò đầu thanh minh là cha sinh mẹ đẻ đã như thế, quan phán:

- Hừ, ai làm chứng là cha mẹ mày sinh ra mày đã như thế này, hay là mày mới phẩu thuật chính hình để chuyên nghề thám thính ? Mày có gì chứng minh điều mày nói là sự thật ?

Bát Giới nhăn nhó bảo rằng chỉ còn cách về nhà nhờ bà con xóm giềng xác nhận. Nhưng muốn về thì phải có điệp văn quan cấp cho. Quan lại bảo muốn có điệp văn  ta cấp thì mày phải có người xác nhận, chưa có hẳng cứ đợi đấy, khi nào có ta sẽ nói chuyện sau...

Hôm sau quan gọi Ngộ Không vào hỏi:

- Mày đi đâu cũng kè kè cái gậy sắt để làm gì?

- Thưa, để đánh yêu quái.

Quan nổi xung đập bàn quát.

- A, thằng này láo! Nước Vệ nổi tiếng an ninh trật tự, muôn dân sống an bình hạnh phúc, làm gì có yêu quái để mày đánh.  Phải chăng mày mang gậy là để chống đối người thi hành công vụ. Trả lời thành khẩn, nếu không chớ có trách.

Ngộ không trần tình, rằng đường sá xa xôi hiểm trở, đâu đâu cũng có hùm beo yêu quái rình rập gây sự. Cây gậy này tiểu trừ chúng, bảo vệ sự an toàn cho đoàn thỉnh kinh và giúp dân chúng qua cơn nguy khốn. Quan lại hỏi:  

- Thế mày đánh yêu quái đã xin phép ai chưa?

- Dạ chưa ạ.

Quan bảo:

-  Mày làm thế là vi phạm kỉ cương. Trước khi ra tay thì mày phải biết đối phương có đúng là yêu quái hay không.  Phải lập hồ sơ tội trạng, trình quan sở tại xét duyệt ra quyết định. Hừ! ai cũng manh động như mày thì thành ra loạn à? Đất nước tao đang yên lành mà mày vác gậy đi nghênh ngang thế kia, chẳng hóa ra mày bêu rếu nền an ninh nước Vệ sao?  Mày phải ở lại đây để tao thẩm tra tiếp, trước mắt tạm giữ cây gậy sắt của mày. Ngộ không định mở miệng phân bua thì quan đã cho người lôi ra khỏi công đường.  Ngày hôm sau đến lượt Ngộ Tĩnh bị điều lên công đường. Quan dọa:

-  Hai thằng kia đã nhận tội do thám và gây rối trật tự công cộng. Mày khôn hồn thì khai ngay mọi tội trạng để được nhận lượng khoan hồng của bản quốc. Nói ngay, cái hòm to tổ bố mày mang kia đựng những gì, bom mìn tự tạo, thuốc gây nghiện hê rô in, hay băng đĩa văn hóa đồi trụy?

Ngộ Tĩnh vả mồ hôi trán, lắp bắp:

- Thưa quan hòm đựng toàn kinh Phật

Sau khi ngó nghiêng những pho kinh Phật chữ nghĩa loằng ngoằng như dun bò, quan phán:

- Đợi tao cho người dịch hết ra tiếng Vệ xem ra sao đã, nhỡ  có tài liệu gì độc hại, chống đối lại chủ trương đường lối của nước Vệ thì sao?

Quan giữ lại hòm kinh, Ngộ Tĩnh được tại ngoại.  Lúc này Ngộ Không cũng vừa vượt ngục trở về, Đường Tăng nói với hai đệ tử :

-  Không hiểu các chức trách nước Vệ có biết tôn quý kinh sách không,  chẳng may họ bán cho các tay đồng nát thì uổng công thấy trò ta, lại đắc tội to với nhà Đại Đường và Phật tổ Như Lai. Ngộ Không, con mau mau đằng vân phi vũ  đến xin  Phật tổ Như Lai ra tay cứu giúp,  thậm cấp, thậm cấp.

    Buổi sáng nọ, Phật tổ Như Lai đỉnh đạc vào Hải Quan phủ, chưa kịp trình bày vụ việc đã bị quan hỏi ngay:

- Đến đây có việc gì ?

- Xin ngài giúp đoàn thỉnh kinh nhà Đại Đường được về cố quốc sớm ạ.

Tên gì, quan hệ thế nào với đám người đó ?

- Tên Phật tổ Như Lai.

- Anh Lai cho biết, anh có hộ khẩu ở đâu, làm nghề gì?

- Thưa tôi ở Tây Trúc,  làm nghề tu hành.

- Tu hành tức là trồng cây hành làm gia vị? Công Tôn Tích ghi vào biên bản: anh Lai làm nghề nông.

Đức Như Lai vội xua tay:

- Tu hành không phải là nghề nông, chỉ chuyên tâm tu dưỡng, hướng tới chân thiện mỹ và giải thoát...

- Anh Lai trả lời đúng câu hỏi, tu thế lấy gì để sống ?

-  Thưa, nhờ ơn bố thí của chúng sinh.

Quan càu nhàu:

- Ăn xin còn làm bộ loanh quanh, Công Tôn Tích, ghi là nghề ăn xin, vậy quan hệ với đám người kia thế nào?

- Dạ, họ là đệ tử của tôi.

- À, thì ra các anh có tổ chức, có phân cấp hẳn hoi. Tôi phải làm rõ về tổ chức và tôn chỉ hoạt động của các anh, truy nguyên ai là người cấp phép...

                                                        

                                                         * *

*

Năm năm trôi qua, thầy trò Đường Tăng vẫn chưa đổi được điệp văn. Lòng dạ mọi người như lửa đốt, Đường Tăng sai Ngộ Không lên trời cầu cứu, Ngọc Hoàng nghe trình bày xong ngáp dài lắc đầu:

- Cái luật của nước Vệ nhiêu khê lắm, ta có xuống cũng bị họ bắt xác minh lí lịch. Ta đã sống cả tỉ tỉ năm, bạn bè trang lứa ra đi hết rồi, hỏi còn ai mà đứng ra xác minh với xác nhận. Xuống đó rồi cũng kẹt cứng như các người thôi.  

       Một hôm Ngộ Không la cà các quán nước vỉa hè thấy dân chúng đọc  báo nói rằng sắp có đoàn cấp cao nhà Đại Đường sang nước vệ công cán, vội về bẩm báo với  thầy Đường Tăng:

- Bạch thầy, bạch thầy, hoàng đế nhà Đại Đường sắp sang nướcVệ chuyến này chắc thoát, chắc thoát. Huhuhu.

Đường Tam Tạng đang lim dim ngủ liền choàng dậy mừng hú, kêu: thiệt không, thiệt không, rồi lẩm bẩm: Nam mô bổn sư Thích Ca mâu ni Phật,  cho con vượt qua kiếp nạn thứ 81, ...thứ 81... thứ 81...nam mô...nam mô...!!  Ngộ không, Ngộ Tĩnh, Trư Bát Giới sướng như điên, ôm nhau nhảy thâu đêm vũ khúc “Biệt Vệ hành” do ba chàng tự biên tự diễn rất là hoành tráng.

 

  

    

Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 3 tháng 12, 2010

ĐÔI LỜI VỚI BẠN TORO...

                             Chữ Hán được viết theo chiều dọc thẻ tre

 

    Diễn viên Lã Thanh Huyền sắm vai Trần thị Dung trong phim Thái sư Trần Thủ Độ

( Đạo diễn cho bà Dung xoay sách thẻ tre 90 độ, và thời nhà Trần làm gì có sách thẻ tre để đọc)

 

 

Bạn TORO nhắn cho Bu thế này:

Bác tra giúp xem cái loại sách thẻ tre các cụ nhà mình có xài không, xài vào thời nào? Trông cái ảnh giới thiệu phim, thấy Lý Công Uẩn ngồi ở cái bàn có nhiều cuốn thẻ tre mà bực quá, cứ như là thời Tần Thủy Hoàng... Nhà Lý đã có thi cử, đã có Quốc tử giám thì dùng giấy từ lâu rồi chứ...

Cho đến nay, Bu chưa tìm thấy một quyển sách nào có thể tra cứu ngay được các cụ ta có xài sách thẻ tre không, và xài vào thời nào.  Chỉ biết rằng người Tàu đã biết viết chữ lên thẻ tre từ đời nhà Thương (1556 tcn - 1446 tcn). Sách Hậu Hán thư có ghi “Thời cổ đại, sách và tài liệu phần lớn được chép trên thẻ tre rồi sau đó chép lên lụa gọi là chỉ. Lụa đắt tiền, thẻ tre thì nặng, cả hai đều không thuận tiện” (1). (Có chuyện kể Đông Phương Sóc dâng thư cho Hán Vũ đế gồm 3000 thẻ tre, phải cần đến hai người mới gánh hết, nhà vua vất vả đọc hai tháng sau mới xong).  Năm 1972 các nhà khảo cổ Tàu khai quật hai ngôi mộ cổ ở Ngân Tước Sơn thuộc đông nam thành phố Lâm Nghi tỉnh Sơn Đông, ở ngôi mộ thứ nhất thu được 4942 thẻ tre, ở ngôi mộ thứ hai thu được 32 thẻ. Trên các thẻ tre ấy thấy ghi các tác phẩm như: Tôn Tẫn binh Pháp (Tôn Tẫn viết) Tôn Tử binh pháp (Tôn Vũ viết) và nhiều sách khác. Thời gian chôn cất hai ngôi mộ này vào khoảng 140 tcn - 118 tcn, vậy các văn bản trên thẻ tre rõ ràng được viết từ trước đó (2).  Ở Việt Nam, bảo tàng lịch sử  không thấy chưng bày thẻ tre của người xưa trứ tác.  Trong thông báo “Những phát hiện mới nhất về khảo sát học lần thứ 45” của Viện Khảo cổ học (3) cũng không thấy nói đã phát hiện được thẻ tre ở đâu cả.  

     Theo sách “100 nhân vật ảnh hưởng lịch sử Trung Quốc” thì  vào đầu thời Đông Hán (25 - 220) có ông Thái Luân (người Tàu) qua nhiều lần nghiên cứu, thí nghiệm, đã chế tạo thành công loại giấy bằng bông tơ thực vật, vỏ cây, sợi gai, lưới đánh cá rách...  loại giấy này giá thành thấp, mỏng, lại chắc, viết trơn tru.  Năm 105 vua Hòa đế (79 - 105) lập tức ra lệnh cho cả nước Tàu sử dụng loại giấy này. Thái Luân được vua phong Long Đình hầu, nên giấy của ông được gọi là giấy Thái Hầu.  Quan quân nhà Đông Hán khi xâm lược nước ta hẳn đã đem giấy Thái Hầu sang dùng trong công văn giấy tờ, trong các lớp dạy chữ  Hán, nhằm đào tạo các ông quan  Giao Chỉ phục vụ bộ máy cai trị của họ, như Lý Tiến và Lý Cầm  (thời Hán Linh đế 168-189).  Khâm định Việt sử thông giám cương mục khi nói về hoạt động của các thái thú nhà Hán có viết  “nhà Hán nghe tin Trương Tân mất  ban cho Sĩ Nhiếp (4) bức tỉ thư...”. Tỉ thư là tờ công văn bằng giấy có đóng dấu ấn để làm tin, tỉ thư không thể là thẻ tre vì không đóng dấu lên đó được.

      Theo Giáo sư tiến sĩ  Jeam - Pier Drége  giám đốc Viện Viễn đông bác cổ Pháp  thì thời nhà Tấn (265- 420) nước ta không chỉ  sử dụng giấy của Tàu mang sang  mà còn  làm ra giấy mật hương . Ông  cho hay, sách “Nam phương thảo mộc” của Kê Hàm có ghi  Mật hương chỉ (tức giấy mật hương BLK chú) làm bằng vỏ và lá của thứ cây có mùi mật. Giấy màu nâu, có những vân hình trứng cá. Giấy rất thơm, bền và mềm, khi thấm mực không bị mủn.  Năm Thái khang thứ 5 (284, đời Tấn) sứ bộ La Mã dâng đến 30.000 tờ. Hoàng đế ban cho Đỗ Dự là Bình Nam tướng quân và Đan Dương hầu 10.000 tờ để viết Xuân thu thích lệ và kinh truyện tập giải dâng lên vua...”. Lễ vật  không phải đến từ đế quốc La Mã mà đến từ bán đảo Đông Dương, cụ thể  là Nhật Nam tức một phần nước ta thời nhà Hán. Lý thời Trân (1518 -1593) trong “Bản thảo cương mục” giải thích cây có mùi mật nói trên là cây trầm hương mọc ở Việt Nam và Ấn Độ.

        Như vậy, chậm nhất là vào năm 284 nước ta đã sản xuất được giấy thì không lý do gì 727 năm sau, tức mùa xuân 1010 vua Lí Thái Tổ lại viết chiếu dời đô lên thẻ tre. Nếu nhà làm phim nào đó cho vua Lí Thái Tổ ngồi giữa một đống thẻ tre như TORO nói thì  những người ấy làm lấy được cho có phim, bất chấp các sự kiện lịch sử. Tệ hại hơn, trong phim Thái sư Trần Thủ Độ do Nguyễn Mạnh Tuấn viết kịch bản, Đào Duy Phúc đạo diễn (5) lại cho bà Trần thị Dung vợ vua Lý Huệ Tông (sau đó là vợ Trần Thủ Độ) đọc sách trúc, gián tiếp nói rằng thời nhà Trần thế kỉ 13 người dân Việt còn dùng sách thẻ tre, thẻ trúc như thời cổ bên Tàu. Diễn viên Lã Thanh Huyền sắm vai Trần thị Dung chăm chú đọc sách nhưng lại xoay sách đi 90 độ. Có lẽ ông đạo diễn cho rằng  người xưa viết chữ theo chiều ngang thanh tre, mà không biết rằng  người xưa lại viết chữ theo chiều dọc. Sự thiếu hiểu biết lịch sử của các nhà làm phim dẫn đến những sai lầm ấu trĩ, vừa phản lịch sử vừa phản văn hóa. Tiếc thay!

(1)   Theo “Những ghi chép đầu tiên về nghề làm giấy ở Việt Nam qua thư tịch Trung Hoa” - Từ điển mở

(2)  Theo “Thẻ tre Ngân Tước Sơn” - Từ điển mở

(3)  Viện Khảo cổ học tổ chức hội nghị vào ngày 29.9.2010

(4)  Trương Tân và Sĩ Nhiếp là các viên thái thú nhà Đông Hán cai trị Giao Chỉ thời bắc thuộc lần thứ 2

(5) http://tuoitre.vn

Đọc tiếp ...