Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

BÀN THÊM VỀ TRUYỆN NGẮN ĐƯỜNG TĂNG

 

Bên Tudinhhuong có giới thiệu truyện ngắn Đường Tăng với đề từ: “Tác phẩm Đường Tăng của tác giả Trương Quốc Dũng đạt giải nhất cuộc thi Truyện cực ngắn của Hội Nhà văn năm 1994. Truyện đã gây xôn xao dư luận trong giới Phật tử thời đó”. Bu lục tìm trong báo Văn Nghệ  năm 1994 của Hội nhà văn Việt nam không thấy đăng truyện này. Lạ! Truyện được giải nhất của Hội nhà văn cớ sao tờ báo chủ chốt của Hội lại không đăng. Bu vào Vnthuquan.net thì đọc được lời giới thiệu về truyện Đường Tăng như sau: “Truyện cực ngắn “Đường Tăng” của tác giả Trương Quốc Dũng (cùng với “Hoa Muộn” của Phan Thị Vàng Anh) đoạt giải nhất cuộc thi Truyện cực ngắn của tạp chí Thế Giới Mới và Hội Nhà Văn đồng tổ chức năm 1994 và đã nhận nhiều ý kiến khác nhau”.  Bu hỏi thêm một số bạn bè làm văn chương và báo chí trong khoảng thời gian đó thì họ xác nhận thông tin của Vnthuquan.net là chính xác. Như vậy, nội dung đề từ ở trang tudinhhuong  không do cô  viết mà được sao chép từ một trang khác, vì cuối truyện Đường Tăng thấy tudinhhuong viết : “Cảm ơn anh Hồ Gia Trang đã cho em copy truyện này nhé”. Bu nói  lại điều này để các bạn hiểu đúng những gì đã xẩy ra, tạo nên “sự kiện” Truyện ngắn Đường Tăng hồi năm 1994.   

Để các bạn có thêm cơ sở thảo luận về chuyện Đường Tăng, ngoài việc cóp lại chuyện này bên  tudinhhuong, bu tui xin tóm tắt trích ngang lý lịch Đường Tăng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc và trong tiểu thuyết Tây Du ký của Ngô Thừa Ân.

A -Truyện ngắn Đường Tăng

Tác giả: Tương Quốc Dũng

Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật, Đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
Nhiều ngày nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần cuối qua tim, cứa vào quá khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở.
Chặng đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. Ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần linh thánh lớn bé, đã quá nhiều lần giẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: mau thành chính quả. Ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
Nhiều lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người.
Ông trở mình, thở dài: không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật hay ma?
Đường Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
Đường Tăng thở hắt: “Không sao đâu. Ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe tiếng Ngộ Không: “Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người
Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất –“Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa”.
Bát Giới cười khẽ: “Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc”.
Sa Tăng an ủi: “Thầy trò mình sắp hóa Phật mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công quả vĩ đại lắm”.
Đường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăng trối: “Ta ước gì đêm nay đừng sáng.
Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi! Một đời con mong được thành người thì bị bắt ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta? Không còn là người không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người”.
Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy nghẹn ngào: “Thầy đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi”.
Đường về. Qua sông. Thiên sứ vừa cười vừa chỉ cho Đường Tăng thấy thân xác ông đang trôi dạt dưới cầu.
Nhưng Đường Tăng đã không nghe thấy gì nữa. Đôi mắt vô hồn.

 

B- Nhân vật Đường Tăng trong lịch sử

Đường Tăng có nghĩa là cao tăng thời nhà Đường, tên thật ông là Trần Huyền Trang (600 - 664) sinh tại Hồ Nam, năm 13 tuổi đã xuất gia, năm 21 tuổi thụ giới cụ túc. Ông theo học giáo lý Đại thừa với nhiều nhà sư danh tiếng thời đó, nhưng nhận thấy giữa các giảng sư có nhiều điềm khác nhau, và ngay trong một giảng sư có nhiều khi mâu thuẩn, tiền hậu bất nhất. Đấy là lý do chính thúc đẩy ông một mình lên đường sang Ấn Độ để tự mình tìm hiểu lấy. Sư rời Trường An vào năm 629, năm 631 đến Kashmir, năm 633 mạo hiểm tìm đến dấu tích Phật như Ca tì la vệ, Giác Thành, và cuối cùng đến Đại học Phật giáo Na lan đà. Tại đây sư được Giới Hiền truyền Pháp môn Duy thức. Hai năm sau sư rời Na lan đà sang Tích Lan, rồi lại trở về Na lan đà học triết học Ấn Độ. Danh tiếng của sư trở nên lừng lẫy, là người thông hiểu thấu đáo giáo lý Tiểu thừa và Đại thừa. Năm 645 sư trở về Trường An và mang theo 520 bộ kinh sách của Tiểu thừa và Đại thừa. Những năm sau đó sư tập trung dịch kinh Phật từ chữ Phạn ra chữ Hán, ngoài ra sư còn dịch Đạo Đức kinh của Lão tử và Đại thừa khởi tín luận (nguyên bằng tiếng Phạn đã thất truyền) bằng tiếng Hán ra tiếng Phạn. Đặc điểm những bản dịch của sư Huyền Trang là sự chính xác trong ngôn ngữ và tính văn chương cao. Lịch trình chuyến đi 17 năm được sư ghi lại trong sách “Đại Đường Tây vực ký”, giúp hậu thế hiểu rõ lịch sử Ấn Độ trong thế kỷ thứ 7. Đến thế kỷ 16 Ngô Thừa Ân dựa vào những giai thoại, những chuyện kể trong dân gian về chuyến đi của sư Huyền Trang để hư cấu nên  kiệt tác  thần thoại Tây Du ký làm hấp dẫn người đọc. Tên Huyền Trang được Ngô Thừa Ân gọi là Đường Tăng hoặc Tam Tạng.

C- Nhân vật Đường Tăng trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân

Ngô Thừa Ân đã hư cấu nên một Đường Tăng chỉ giống Đường Tăng có thật trong lịch sử là sang Ấn Độ thỉnh kinh, còn lại hai ông không giống gì nhau cả. Đường Tăng ở Tây Du ký là một hòa thượng đẹp mã. Cứ theo lời kể của Phật tổ thì kiếp trước Đường Tăng là đồ đề thứ hai của ngài, tên gọi là  Kim Thuyền Tử, do không  nghe thuyết pháp, khinh nhờn đại giáo nên bị đức Như lai đuổi đi thác sinh bên Đông thổ thuộc nước Đại Đường.  Ở cõi ta bà này, Đường Tăng là người có đức độ và quyết chí ăn chay niệm Phật, nên được vua Đường yêu quý,  được  Phật tổ chỉ đạo Quán Thế Âm bồ tát ngấm ngầm chọn sang Thiên Trúc thỉnh kinh.  Bồ tát cũng sắp đặt Tôn Ngộ Không, Trư bát Giới, Sa tăng, ngựa bạch, đi tháp tùng Đường Tăng. Trong suốt 14 năm trời với chặng đường  mười vạn tám ngàn dặm, thầy trò Đường Tăng gặp 81 kiếp nạn nhưng nhờ mưu trí và tài nghệ mà Tôn Ngộ Không đã đưa được  Đường Tăng đến chùa Lôi Âm gặp Phật Tổ Như Lai thỉnh về  cho nhà Đại Đường 35 bộ kinh với 5048 quyển. Là người thừa ý chí đi tìm Phật thỉnh kinh nhưng Đường Tăng quá nhẹ dạ cả tin, tin vào lời xúc xiểm của Trư Bát Giới hơn tin vào sự thẳng thắn và sáng suốt của Tôn Hành giả, rất nhiều lần tin vào yêu quái đến nỗi bị chúng bắt về sào huyệt dọa giết ăn thịt.  Nhiều lần Tôn giết yêu quái nhưng  Đường Tăng cho là giết người lương thiện bèn mạt sát, mẳng mỏ, thậm chí viết công văn đuổi thẳng cánh. Nhưng đến khi hoạn nạn chờ chết lại nhờ vào tài nhgệ của Tôn giải thoát cho.  Cả tin, đa nghi, Đường Tăng còn ủy mị hơn cả đàn bà. Gặp cảnh ngộ bất thường, nguy hiểm ông ta bủn rủn chân tay, nói không ra hơi, ngã ngựa, lăn quay xuống đất, khóc lóc thản thiết. Tóm lại, Đường Tăng của Ngô Thứa Ân là một hòa thượng sùng Phật, nhưng  ngớ ngẫn đến mức ngây ngô và đần độn. Tuy nhiên cuối cùng vẫn được Phật tổ Như Lai phong làm Chiên Đàn Công Đức Phật.   

D - Đôi lời của Bu lu khin

    Từ một Huyền Trang trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Ngô Thừa Ân đã hư cấu nên một Đường Tăng của Tây Du ký sống vào thời Phật tổ đang tại thế, tức kéo lùi lịch sử Trung Quốc khoảng 1200 năm. Chưa thấy ai nói về nội dung sách "Đại Đường Tây vực ký" của nhà sư Huyền Trang để biết ông đã đơn thương độc mã sang Ấn Độ suốt 14 năm trời  như thế nào. Nhưng chắc chắn ông đầy đủ bản lĩnh và sáng suốt, vượt qua muôn trùng gian khổ để đến đất Phật, chứ không thể là người cả tin, nhu nhược, đến độ ngớ ngẫn và đần độn như Đường Tăng của Tây Du ký. Thế nhưng sinh thời Ngô Thừa Ân và cho đến hôm nay, chưa thấy một ai lên án ông xuyên tạc Phật  giáo, thóa mạ nhân vật đường tăng cả. Trong khi đó Trương Quốc Dũng dựa vào nhân vật Đường Tăng đã bị nhào nặn qua sáng tạo của Ngô Thừa Ân để viêt truyện Đường Tăng thì có người  lại lên án  tác giả xuyên tạc Phật giáo, bóp méo vai trò một cao tăng danh tiếng? Nhân thể nói thêm, Ngô Thừa Ân đã mô tả hai đệ tử ruột của Phật tổ là A Nan và Ca Diếp khi hai ông này trao kinh Phật cho thấy trò Đường Tăng không khác nào những kẻ đòi hối lộ: "A Nan, Ca Diếp dẫn Đường Tăng xem khắp tên cá bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường Tăng, "Thánh Tăng từ phương đông tới đây chắc có chút lễ vật gì biếu chúng tôi chăng, mau đưa ra đây chúng tôi đưa kinh cho". Khi Tôn Hành Giả khiếu nại vụ đòi quà cáp này lên Phật Tổ thì ngài cười nói : "Nhà ngươi cứ bình tỉnh. Việc hai người (A Nan , Ca diếp) vòi lễ các người, ta biết cả rồi. Có điều kinh không phải trao truyền một cách dễ dàng, không thể lây không được".  Căn cứ vào văn bản Tây Du Ký thì Ngô Thừa Ân đã khẳng định đệ tử Phật đòi hối lộ và chính Phật tổ đồng lõa với hành động đó. Nhưng lạ thay, năm thể  kỷ qua ở Trung Quốc và nhiều nước ngoài Trung Quốc chưa một ai lên án Ngô Thừa Ân xuyên tạc đạo Phật như nhiều người đã lên án Trương Quốc Dũng viết truyện ngắn Đường Tăng. 

   Tuy nhiên đọc Tây du ký cần phải đọc giữa hai hàng chữ, và xem xét nó dưới hai góc độ: Là tác phầm phản ánh hiện thực xã hội dưới thời nhà Minh, mặt khác nó là  hệ thống mật mã trong phương pháp cấu trúc. Đây là vấn đề nằm ngoài chủ định của Bu tui  khi nói về Đường Tăng trong truyện ngắn của Trương Quốc Dũng.  

Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

LÀM NGƯỜI

 

 

 


 

 

Nhà thơ Phùng Quán

(1932 - 1995)

 

 

Nhà thơ Hữu Loan

(1916 - 2010)




Bạn gió heo may còm trong Entry "ĐẠO ĐỨC KINH VÀ ĐẠO GIÁO" có đoạn: "Đạo nào cũng không qua Đạo làm người phải không anh Bu ?" Ý kiến đó được bạn lanvuive và bạn Mùa Thu Vàng rất tâm đắc, bu tui cũng xem là chí phải, nay xin " bình loạn"  thêm vài dòng về chuyện làm người để các bạn đọc cho vui.

 

 

Trong  sách Tam tự kinh của Nho giáo  có nói "Nhân chi sơ tánh bổn thiện", tức là "Người thuở đầu, tánh vốn thiện". Chữ "vốn" gợi ta nghĩ rằng đến thuở sau và thuở sau nữa …thì con người đã hết thiện rồi. Vậy đạo làm người là dạy người ta  phải trở lại làm cái người thiện đó. Thiện trong Phật giáo là không còn hành vi tham sân si. Còn nghĩa thông thường thì thiện là tốt, lành, hợp với đạo đức. Hai chữ đạo đức hơi nhiêu khê, vì đạo đức phong kiến khác đạo đức tư sản, khác đạo đức cộng sản. Thôi thì tạm hiểu một người thiện là: Khỏe mạnh, trung thực với mình, với người, kính trên nhường dưới, giúp đỡ người lúc khó khăn hoạn nạn, sống lành mạnh, trung thành với sơn hà xã tắc... Nhưng con người không chỉ sống một mình mà phải sống giữa cộng đồng xã hội.  Con người cá nhân sẽ bị rèn dũa thành con người xã hội, nó như những viên bi làm cho cổ máy thể chế chạy đều. Thời phong kiến bên Tàu, ông Đổng Trọng Thư (179 -104 TCN) là cố vấn tư tưởng của vua Hán Vũ đế nói rằng: "Quân xử thần tử, thấn bất tử, bất trung"  tức là vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết, là bất trung. Như vậy thân phận con người như con cá, con chim, được sống hoặc phải chết là do vua quyết định. Nhưng ông Mạnh tử (372-289 TCN) nối nghiệp Khổng tử, trước Đổng Trọng Thư gần 2 thế kỉ, đã bảo thẳng vào mặt Tề Tuyên Vương: "Vua coi bề tôi như tay chân thì bề tôi coi vua như bụng dạ, vua coi bề tôi như chó ngựa, thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường, vua coi bề tôi như đất cỏ thì bề tôi sẽ coi vua như kẻ thù, quân giặc". Đã là kẻ thù, quân giặc, thì bề tôi buộc phải cầm lấy vũ khí mà đánh đuổi đi, bằng không thì nguy cho xã tắc. Rõ ràng Mạnh tử đã phác họa ra một kiểu làm người tiến bộ hơn, có nhân quyền hơn Đổng Tọng Thư nhiều. Đấy là nội trong nước Tàu phong kiến, đã thấy các thánh dạy cách làm người khác nhau. Vậy thì người Nhật, người Pháp, người Nga, người Mỹ.. nói chung toàn nhân loại sẽ có cách làm người khác nhau và khác chúng ta biết nhường nào.

   Dân Việt Nam hiện đang làm người theo một cách riêng không giống ai. Chúng ta lấy học thuyết Mác-Lê nin làm kim chỉ nam, lấy đấu tranh giai cấp làm động cơ thúc đẩy xã hội phát triển, lấy đạo đức Hồ chí Minh để tu luyện, thì nhất nhất mọi khái niệm đều phải kèm theo bùa chú "Xã hội chủ nghiã". Yêu nước? Không có cái nước chung chung cho anh yêu, mà phải yêu nước Xã hội Chủ nghiã. Dân chủ? Là "dân chủ tập trung" theo phương thức Xã hội Chủ nghĩa. Con người? Là người mới Xã hội Chủ nghĩa. Một thời người ta dạy nhau "Muốn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội thì phải có con người Xã hội Chủ nghĩa" nghe cứ như con kiến mà leo cành đào... Từ đó mới mọc ra cái nguyên tắc tréo nghoe "Muốn có nhà phải có hộ khẩu, muốn có hộ khẩu phải có nhà".  Nhưng hỏi Xã hội Chủ nghĩa là cái chi thì các học giả thượng thặng chưa ai nói ra được cho thông suốt, huống chi là đám dân đen. Tức là cái cũ của phong kiến, đế quốc xóa bỏ đi rồi, còn cái mới nó như thế nào thì còn mù mờ sương khói. Lịch sử văn học nước nhà cho thấy làm người trung thực đâu có dễ. Nhà thơ Phùng Quán viết trong  bài thơ "Lời mẹ dặn" có đoạn: "Yêu ai thì bảo là yêu. Ghét ai thì bảo là ghét. Dù ai ngon ngọt nuông chiều. Cũng không đổi yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết. Cũng không đổi ghét thành yêu" ấy thế mà ông bị cấp trên cho lên bờ xuống ruộng ngót 30 năm.  Nhà thơ Hữu Loan (tác giả Màu tím hoa sim , làm đắm say lòng người) trong thời Nhân văn Giai phẩm, bỏ Hội Nhà văn, bỏ Hà Nội về Nga Sơn Thanh Hóa đi thồ đá hộc kiếm sống nuôi vợ con, đôi lúc không đủ cháo khoai để ăn, nằm xỉu bên xe đá. Có người hỏi ông sao bác không ra thủ đô Hà Nội làm nhà văn, ông tươi cười: "tớ còn bận làm người".

Vâng! Làm người khó lắm thay.

Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

ĐẠO ĐỨC KINH VÀ ĐẠO GIÁO

Lão tử

 

 Cúng giải sao hạn

 

 

Bàn thờ gia tiên

 

 

 Bạn Tudinhuong hỏi bu tui:

1- Đạo Đức kinh chính là Đạo giáo phải không?

2- Người Việt Nam đa số theo Đạo giáo phải không?

3- Đạo thờ Tổ tiên Ông bà cũng là một hình thức Đạo giáo phải không ạ ?

 

Theo thiển nghĩ của bu:

1- Đạo Đức Kinh là một học thuyết của Lão Tử  xuất hiện vào thời Chiến Quốc bên Tàu.

Chữ đạo mới đầu trỏ một dường đi, sau đó trỏ cái lí phải theo, như đạo làm người, đạo làm con…sau cùng mở rộng ra nữa để trỏ luật, trật tự thiên nhiên. Và Lão tử đã chọn chữ đạo để chỉ bản nguyên vũ trụ. Thực ra ông không chọn được từ nào thích hợp hơn, chữ đạo là để dùng tạm, bởi vậy mở đầu Đạo đức kinh ông viết: "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" nghĩa là: Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải đạo vĩnh cữu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó (đạo) thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến". Với Lão tử thì đạo có trước thượng đế, : " Ngô bất tri thùy chi tử, tượng đế chi tiên", nghĩa là: Ta không biết nó con ai, có lẽ nó có trước thượng đế.

Về cái dụng của  đạo Lão tử nói: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật " tức là Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba,  ba sinh ra vạn vật.

Chữ đức trong đạo đức kinh khác với đức trong nho giáo mà ta từng biết như: Đức trị, tứ đức tam tòng, đức hạnh…Đức của Lão tử là biểu hiện cụ thể của đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật nhưng làm cho vật nào thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ  là do đức. "Đạo sinh ra nó (vạn vật), đức chứa đựng nó, làm cho nó lớn, làm cho nó sống, làm cho nó hiện ra hình, làm cho nó thành ra chất, và nuôi nấng che chở cho nó" (Đạo sinh chi, đức xúc chi, trưởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phúc chi)  

       Nhìn chung Học thuyết của Lão tử mang tính vô thần, trời có sau đạo, chủ trương sùng thượng tự nhiên, cho tự nhiên là hoàn hảo tột bực, là năng lực vô biên, một "thần khí" mà loài người buộc phải tuân theo không được trái lại, không được tìm cách sửa đổi. Từ đó ông chủ trương vô vi, vô vi không phải không làm gì cả mà phải làm theo quy luật tự nhiên.

 

2- Đạo giáo

Sau Lão tử, đến lượt Trang tử (369-286 trước Tây lịch ) cho rằng người biết được học thuyết Đạo đức kinh của Lão là người nắm được thiên cơ,  người ấy gọi là chân nhân. Chân nhân là người xuất thế thoát tục, ngao du đây đó, sống với trăng sao, sông nước, cây cỏ, luyện thuốc linh đan uống vào cho trường sinh bất tử, đạt được ý  đó là tiên ( ). (Tiên gồm bộ nhân là người, đứng bên trái chữ sơn   là núi, ý rằng tiên là người ở trên núi). Thế là từ một học thuyết triết học của Lão tử nói về sự hình thành trời đất muôn vật được gọi là Đạo đức kinh,  biến thành một tín ngưỡng tôn giáo gọi là Đạo giáo, lấy phép tu thành tiên,  kéo dài cuộc sống bất tử làm mục đích. Đạo giáo có hai khuynh hướng , Đạo giáo thần tiên và đạo giáo phù thủy,

* Đạo giáo thần tiên lấy phép tu tiên, luyện đan, kéo dài sự sống làm mục đích. Đại biểu của phải này là Cát Hồng (283- 343 tr  Tây lịch)

* Đạo giáo phù thủy dùng phù phép vẽ bùa trên nước gọi là bùa thủy hoặc phù thủy. Cũng có thể vẽ bùa trên giấy hoặc trên vải, cùng nhiều phép hô phong hoán vũ kêu gọi âm binh…Đại diện cho khuynh hướng này là Vu cát sống trong đời Đông Hán , triều vua Thuận Đế ( 126-144)

      Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ II. Ở Trung Hoa, sau khi Hán Linh đế băng hà, xã hội rối loạn, riêng có Giao Chỉ là đang yên ổn. Người phương Bắc qua Giao chỉ lánh nạn rất đông trong đó có nhiều thuật sĩ của hai khuynh hướng Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy. Nhiều quan lại Trung Hoa sang ta cai trị đều sính phương thuật, điển hình là Cao Biền đời Đường  từng lùng tìm yểm huyệt, hy vọng cắt đứt các long mạch  để hòng triệt nguồn nhân tài Việt Nam. Tuy Đạo giáo tôn Lão tử làm giáo chủ nhưng phương pháp tu hành thì chống  lại giáo lý của Đạo đức kinh. Trong khi Lão tử chủ trương sùng thượng tự nhiên, xem sống chết là quy luật thì Đạo giáo tu tiên, luyện linh đan để  được trường sinh bất tử.

      Đến nay ở Việt Nam vẫn còn hiện tượng như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú… nhưng đó là di sản của tín ngưỡng dân gian truyền thống. Đạo giáo như một tôn giáo đã lâu không còn tồn tại nữa. Bởi vậy không thể nói "Đa số người Việt Nam theo Đạo giáo". Theo thống kê năm 2009 thì 7,93% dân Việt Nam theo Phật giáo, và 6,61% theo Thiên chúa giáo, đây là hai đạo lớn nhất Việt Nam hiện nay.

3- Thờ cúng ông bà….

Trong con người có cái vật chất và cái tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt nên người xưa thần thánh hóa nó thành khái niệm "linh hồn", và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Người Việt tin rằng xác thân của tổ tiên, ông bà ở nơi chín suối, nhưng linh hồn vẫn thường xuyên đi về thăm nom phù hộ cho con cháu, đấy là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân tộc Đông Nam Á và là nét đặc trưng cho vùng văn hóa này. Theo nhà nghiên cứu người Nga G.G. Stratanovich thì nó phổ biến và phát triển hơn cả ở người Việt. Đối với người Việt, nó gần như thở thành một tôn giáo, ngay cả những người không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà. Người miền Nam gọi là  Đạo ông bà. Nguyễn Đình Chiễu viết trong lục Vân Tiên:

Thà đui mà giữ ĐẠO NHÀ

Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ

 

Như vậy tín ngưỡng thờ tổ tiên, (hay xem là Đạo ông bà đi chăng nữa) thì nó không liên quan gì đến Đạo giáo - một thứ biến thể Đạo đức kinh  của Lão tử - chuyên tu  tiên, luyện linh đan để trường sinh bất tử, hoặc phù phép đồng bóng  làm những điều kì dị, không có căn cứ khoa học .      

 

 

 

 

 

 

Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

TÔN NGỘ KHÔNG

Diễn viên Lục Tiểu Linh Đồng

đóng vai Tôn Ngộ Không

 

 

 

Ra tết nhâm thìn, bu tui hứa với tudinhhuong sẽ viết một cái gì đó về Đường Tăng. Nhưng rồi những việc không tên chiếm hết thì giờ. Hôm nay tudinhhuong lại nhắc vào GB  "Chú Bu om ông Đường Tăng đừng quá lâu chú  nhé! " hihihi…Thôi thì bắn không nên phải đền đạn, trước khi nói về Đường Tăng, mời tudinhhuong và các bạn đọc tạm Tôn Ngộ Không, người đã tháp tùng Đường Tăng trong 14 năm, lê gót trên mười vạn tám ngàn dặm đường đất sang Tây Trúc  thỉnh kinh .

 

Đọc Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, hay xem phim Tây Du Ký của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết thì ai cũng biết Tôn Ngộ Không là chú khỉ được sinh ra từ một tấm đá tiên cao ba trượng sáu thước năm tấc trên núi Hoa Qủa Sơn. Sau khi đi ra biển lớn, trôi nổi  đến xứ Nam Thiêm Bộ Châu, chú khỉ đá theo học với  Bồ Đề tổ sư, nắm vững 72 phép thuật và bắt đầu cuộc đời giang hồ hảo Hán. Cu cậu đã xuống đáy nước bắt nạt Lão Long Vương, chiếm đoạt của ông này cây trụ sắt để làm ra như ý bổng cực kì thần diệu. Lại dắt tai như ý bổng, xuống âm phủ xóa sổ tử của Diêm Vương. Cuối cùng lên trời đại náo thiên cung, khiến Ngọc Hoàng cũng phải sợ. Người xem phim hay đọc sách, đôi khi bị cảnh ngộ li kì lôi cuốn mà không quan tâm đến ý nghĩa cái tên Tôn Ngộ Không là gì, cho dù tên đó ẩn chứa bao điều li kì, huyền bí…

     Số là sau khi Hầu Vương (con khỉ đá) rời cái bè vượt biển bằng cây liễu, chú lên bờ, tìm gặp được Bồ Đề tổ sư trong động Tà Nguyệt Tam Tinh, liền cúi mình nói to, thưa sư phụ, thưa sư phụ, đệ tử con chí tâm chầu lễ.  Sư phụ nói, ngươi là người ở đâu, hãy nói họ tên, quê hương cho rõ ràng rồi sẽ lạy. Hầu Vương nói, đệ tử là người Đông Thắng Thần Châu, nước Ngạo Lai, núi Hoa Quả Sơn, động Thủy Liêm. Tổ sư quát mắng, hạ lệnh tống cổ nó ra, thằng này là phường quanh co dối trá. Hầu vương sợ hãi dập đầu thưa, đệ tử nói thiệt, đâu dám dối trá. Tổ sư nói, từ Đông Thắng Thần Châu đến đây cách hai lần biển lớn, một tòa Nam Thiêm bộ châu, làm thế nào mi đến được. Hầu Vương thưa, đệ tử lênh đênh qua bể, lên đất, lang thang đủ mười mấy năm trời mới dến được đây.

 Tổ sư lại hỏi, vậy tính danh ngươi là gì. Hầu Vương thưa, con không bố không mẹ, không họ không tên, được sinh ra từ một tảng đá, nên không có tímh danh gì cả, người ta chửi con con cũng không giận, người ta đánh con, con cũng không thù, chỉ lễ phép với người ta mà thôi.. Nghe vậy, Tổ sư thấy anh này có Phật tính, do nhân duyên  trời đất mà sinh ra, bèn nói:  Ta muốn đặt cho người họ tôn. Hồ tôn ( 猢 猻 ) là giống khỉ, ta lấy chữ tôn ( ) trong hồ tôn bỏ đi chữ khuyển ( ) còn lại chữ tử và chữ hệ ()  vẫn đọc là tôn. Tử ()  nghĩa là con trai, hệ ( ) nghĩa là trẻ nhỏ. Họ tôn như thế hợp với  tính khí ưa nhảy nhót như trẻ nhỏ của ngươi. Hầu Vương nghe xong hết sức vui vẻ, sụp lạy, khấu đầu nói,  ngày nay con mới biết có họ, muôn trông sư phụ từ bi, đặt luôn cho con cái tên. Tổ sư nói, trong môn phái ta có 12 chữ là: Quảng, Đại, Trí , Tuệ, Chân, Nhu, Tính, Hải, Dĩnh, Ngộ, Viên, Giác,  nay ta lấy chữ thứ mười là Ngộ đặt cho ngươi. Họ tên đầy đủ của ngươi từ nay sẽ là Tôn Ngộ Không ( 孫悟 空). Hầu Vương sung sướng nhắc đi nhắc lại:  Ta là Tôn Ngộ Không ta là Tôn Ngộ Không…

     Ngộ Không tức là thấu hiểu một cách rốt ráo triết lý KHÔNG - khái niệm trung tâm quan trọng nhất, và cũng trừu tượng nhất của đạo Phật. Có lẽ Tu Bồ Đề tổ sư muốn đệ tử của mình vượt qua cách hiểu thuyết "vô thường" và "vô ngã" của Tiểu  thừa, mà chứng được cái Thực Tướng, tức là không chấp "có" mà cũng chẳng chấp "không", nhưng lại "cũng có"    mà "cũng không". Trong kinh  Ma ha Bát nhã Ba la Mật đa Tâm kinh, đức Phật nói với Xá Lợi Tử: "Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc" là xuất phát từ khái niệm đó. Thần nhãn của  Bồ Đề tổ sư đã dự báo chính xác cho sự nghiệp của Tôn Ngộ Không. Cụ thể là, mười bốn năm sau ngày được có họ tên, thì một ngày nọ, tại điện Đại Hùng trong chùa Lôi Âm trên đỉnh Linh Sơn, Phật Tổ Như Lai nói với Tôn Ngộ Không…Vì con đại náo thiên cung, ta đem pháp lực sâu xa ép con dưới núi Ngũ Hành .Rất mừng con biết bỏ điều xấu làm việc lành, trên đường đi phục ma trừ quái, trọn vẹn trước sau, đạt chính quả, ta phong cho làm ĐẤU CHIẾN  THẮNG PHẬT.

    Mới hay, chú khỉ đá đã biết đi ra biển lớn, lại đốt cháy giai đoạn, bỏ qua kiếp người, tiến thẳng lên làm Phật. (Phải chăng xứ sở mình cũng học tập chú khỉ đá kia, từ một nước nông nhiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản, tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã hội ? ). Ngày nay thấy trong Kinh Nhật tụng, ở phần HỒNG DANH BỬU SÁM (trang 113) phật tử Đại Thừa nước Việt ta tụng niệm 108 vị Phật, trong đó vị thứ 92  (trang 123) là Đấu Chiến Thắng Phật, mà trích ngang lý lịch của ngài như đã nói ở trên !!!

 

Đọc tiếp ...

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2012

CÂU CHUYỆN NGUYÊN TIÊU

 

 

 

 

Sắp tết Nguyên tiêu bu tui vui chân thiền hành vào một nhà sách ở Vũng Tàu. Khách khứa vào ra tấp nập. Người ta ít mua sách mà chủ yếu mua tranh ảnh, và các bức thư pháp chữ Hán, như chữ Phúc, Lộc Thọ, Tâm,  Đức, Nhẫn. Cô bán hàng có khuôn mặt ưa nhìn, tuy không biết chữ Hán song cũng thuộc được ngần ấy chữ để quảng cáo và giải thích cho khách hàng. Thế rồi người ta nhập về cho cô một hộp to thư pháp nữa.  Khi mở ra thì cô ngỡ ngàng không biết nó là chữ gì để giới thiệu cho khách. Một chàng trai cỡ hơn cô  vài tuổi thấy vậy thì muốn dồn cô vào thế bí. Này em, cái chữ ấy là chữ gì nói cho anh biết để anh mua vài bức về treo tết Nguyên tiêu. Cô gái đỏ mặt lúng túng như gà mắc tóc, có vẻ như muốn tìm điện thoại để hỏi ai đó. Bu thấy tội nghiệp cô bé và nói với hai người: Đấy là chữ "xã" ( ) các cháu ạ. Nghe thế cả cô lẫn cậu ngạc nhiên, chàng trai hỏi bu, chữ xã trong từ bi hỉ xả của đạo Phật hả chú?  Không phải cháu ạ, chữ xả ( ) trong đạo Phật có tự dạng khác chữ xã này và nghĩa nó cũng khác. Xả trong đạo Phật là xả bỏ. Với con người, đó là trạng thái không vui không buồn, tâm thức vững chắc, nằm ngoài mọi phân biệt. Các cháu lưu ý, chữ xả trong xả bỏ có dấu hỏi, còn chữ xã trong bức thư pháp này khi viết tiếng Việt phải đánh dấu ngã. Cô gái bán sách thật thà: Chú ơi cái chữ xã này nó hay ho cỡ nào, thiệt tình cháu hổng có biết, chú nói cho bọn cháu nghe với. Anh chàng nghe chữ "bọn cháu" từ khóe miệng tươi như hoa kia  thì ra vẻ khoái chí. Bu tui một liều ba bảy cũng liều, đã lỡ nói thì nói nốt: Chữ xã này ta vẫn nói hàng ngày như làng xã, xã hội. Ngoài ra nó còn chỉ cái đền thờ ông Thổ Địa. Cấu tạo chữ xã mang ý nghĩa nhân văn và xã hôi vô cùng sâu sắc. Nó gồm hai phần, bên trái là bộ kì ( ) tức thần đất, biểu tượng cho tâm linh, bên phải là chữ thổ ( ) tức đất đai, tài sản. Một xã hội được gọi là tốt đẹp, hợp đạo lý khi dân chúng trong xã hội đó được cuộc sống vật chất đầy đủ và cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh. Còn nếu vật chất quá đầy đủ, thừa mứa, mà cuộc sống tinh thần nghèo nàn, thì đó là xã hội vô đạo. Ta vẫn thường nói là đạo đức xã hội sa đọa, xuống cấp. Ngược lại một xã hội nặng về tâm linh nhưng nghèo nàn  vật chất thì dân chúng sống lầm than đói khổ, lại mơ tưởng toàn chuyện viển vông. Ta gọi là xã hội duy ý chí.

    Bu tưởng nói cho hai người nghe, ai ngờ nhiều người sau lưng bu khen hay lắm, hay lắm, và mỗi người mua một chữ về treo tết Nguyên Tiêu. Chàng trai nọ lại hỏi bu "vậy chú ơi, vợ chồng gọi nhau là ông xã bà xã thì có phải là  chữ xã này không.? Đúng , hoàn toàn đúng  cháu ạ. Còn tại sao lại gọi là ông xã bà xã nói ra thì dài lắm…Thế là cu cậu nhìn vào cô bán hàng gọi to lên , này bà xã ơi … à quên cô bán chữ xã ơi, bán cho anh hai chữ nào , hihihi. …Có ai đó trêu, cặp này mà làm ông xã bà xã thì đẹp đôi lắm rồi.. Mọi người lại cười lên vui vẻ.

 

 

Đọc tiếp ...