Bài này bu tui viết từ năm 2009, với tựa đề TẢN MẠN NHẬT LỆ. Ngồi trên rớ giàn mà viết, vừa viết vừa ngắm nhìn dòng sông.
Nay xa Nhật Lệ hơn ngàn cây số, mỗi lần nhớ đến dòng sông bu tui chỉ thầm gọi Nhật Lệ ơi như
với một người tình đã 5 năm xa cách…
Mươi lăm năn trở lại đây một số người viết về Quảng Bình cho
ra đời khá nhiều sách địa chí làng xã, di tích và danh thắng. Thống kê sơ sơ đã
có gần 20 quyển. Chẳng hạn "Địa chí Bảo Ninh", "Địa chí làng Thuận
Bài", "Địa chí xã Thanh Trạch" của Nguyễn Tú. "xứ Ròn - Di
Luân thời gian và lịch sử" của Thái
Vũ và Trần Đình Hiếu...Xa hơn nữa là "Những bài học lịch sử Quảng Bình
1937" của Lương Duy Thứ. "Địa lý lịch sử Quảng Bình - 1902" của
Léopold Cadiere. "Ô Châu cận lục -1553" của Dương Văn An...Nhưng
trong ngần ấy sách (kể cả những quyển chưa liệt kê ra ) Không thấy có tác giả
nào chuyên tâm nghiên cứu các con sông và xuất xứ tên gọi của nó như là một đối
tượng của chuyên ngành Địa-Văn hoá.
Tôi làm nghề bắc
cầu qua sông, đã nhiều lần ngụp lặn trong cái đẹp mê hồn của những Kiến Giang,
Đại Giang, Linh Giang, Nhật Lệ...nhưng
như một kẻ phụ tình, không hiểu biết gì những cái tên lấp lánh trong kí ức suốt
mấy mươi năm. Mãi đến gần đây, mới biết được sông Nhật Lệ từng có tên Đại Uyên
và sông Ròn từng có tên Đồ Lê. Không hiểu Đại Uyên Và Đồ Lê đã phải là tên
"quai nôi" của hai con sông này chưa? Chỉ biết là hai cái tên cổ ấy
được ông Lê Đại Nguyên sống dưới triều Lương Võ Đế (505-5430) ghi trong sách
"Thuỷ kinh chú" (1). Thực ra ông Đại Nguyên chỉ làm cái việc chú giải
bộ sách "Thuỷ Kinh" từ thời nhà Hán (111 trước CN đến 43 sau CN) .
Vào thời này người Hán đã "Diệt được Nam Việt lập thành bộ Giao Chỉ - cầm
đầu là một viên Thứ sử, đóng đô ở Mê Linh, Yên Lãng - Vĩnh Phúc" (2).
Trong bộ Thuỷ kinh, người Hán đã ghi chép rất tường tận về sông ngòi ở chính quốc
cũng như ở các vùng đất mà họ thôn tính được. Vậy hai tên Đại Uyên và Đồ Lê hẳn
phải được chép từ bản gốc thời nhà Hán cách nay ngót 2000 năm.
Rõ ràng tên gọi
Nhật Lệ xuất hiện sau sách "Thuỷ kinh chú" của Lương Võ Đế, nhưng cụ
thể là vào ngày tháng năm nào thì chỉ có các bậc đại thức giả mới trả lời được.
May thay, kẻ thiển học này dò ngược lịch sử và tìm được tự dạng hai chữ Nhật Lệ
trong bộ sử thuộc loại cổ nhất của nước ta viết bằng chữ Hán là "Đại Việt
sử ký toàn thư" do sử gia Ngô Sĩ Liên viết xong từ năm 1679 đời vua Lê Hy
Tông. Ở mục Bản kỷ toàn thư quyển III trang 47, tờ 37a-b, sử quan Ngô Sĩ Liên viết: 秋七月占成 國人具般等逃歸其國至日麗寨人執送京師 (thu thất nguyệt Chiêm Thành quốc nhân Cụ
Bàn đẳng đào quy kỳ quốc chí Nhật Lệ trại nhân chấp tống kinh sư) nghĩa là
:"Mùa thu tháng bảy, người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến
trại Nhật Lệ bị người trại ấy bắt được giải về Kinh sư" (3). Trích dẫn câu
trên là một công đôi việc: Khẳng định được tự dạng chữ Lệ (麗) trong rất nhiều chữ Lệ của người
Hán, có nghĩa là đẹp đẽ, rực rỡ. Lại tính gần đúng, cũng con sông ấy được mang
tên Đại Uyên từ thời Hán (111- 43) đến sau
thời Lương Võ Đế (543 - ? ) khoảng 1200 năm. Lại mang tên Nhật Lệ từ thời Ngô sĩ Liên đến nay là 330 năm. Thực ra còn
lâu hơn thế, vì khi sử quan Ngô sĩ Liên đặt bút viết sách thì hẳn là tên Nhật Lệ
đã có trước đó từ rất lâu rồi.
Tôi vẫn nghĩ một
người không thông thạo Hán học cho lắm cũng trả lời ngay được Hồng Hà là sông đỏ,
Hương Giang là sông thơm. Nhưng hỏi Nhật Lệ là gì hẳn anh ta không trả lời
chóng vánh được. Lại nữa, Nhật Lệ là từ
Hán Việt nhưng theo tôi không nhất thiết do người Hán đặt ra. Mà có thể họ đọc
"trại" tên (gì đó) của tộc người Mã Lai - Đa Đảo đã từng sinh sống ở
vùng này. Chả nhẽ một tộc người đã từng
làm nên văn hoá Sa Huỳnh, Bàu Tró, dựng nên quốc gia Lâm Ấp (năm 196) (4) lại
không có tên gì để gọi con sông của xứ sở
? Nhà nghiên cứu Nguyễn Tú đã kê ra 33 từ Chăm có âm na ná tiếng Việt Quảng
Bình. Chẳng hạn Thuk (lặng lẽ, bình yên) rất gần với tên chợ "Thùi" ở làng Thạch Bàn huyện Lệ Thuỷ. Brong (lỗ rổng
trong thân cây) mà người nuôi ong ở Quảng Bình vẫn gọi là "bọng ong"
(5). Vậy Người Lâm Ấp trước đây gọi sông Nhật Lệ là gì? Có lẽ phải chờ hậu thế kiến giải ! Ta hãy bằng
lòng với từ Hán Việt Nhật Lệ rất gợi cảm,
đã từng làm nao lòng không biết bao văn nhân, thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, tự cổ chí kim. Số người giải thích nghĩa hai chữ Nhật Lệ khá
nhiều với nhiều cách khác nhau. Nhìn chung người ta tra nghĩa tự vị của từng chữ
rồi ghép lại. Chữ Hán lại đồng âm dị nghĩa nên mỗi cách ghép lại tạo ra một
nghĩa khác nhau. Trong từ điển Thiều Chữu có dẫn ra hai chữ nhật. Chữ thứ nhất
(日)
nghĩa là ngày, là mặt trời. Chữ thứ hai ( 馹 ) nghĩa là chạy ngựa trạm.
Nhưng Lệ thì có đến ...17 chữ, chỉ xin dẫn ra vài chữ làm ví dụ: Chữ thứ
9 (淚)
là nước mắt, chữ thứ 14 ( 蠣 ) là con hàu, chữ thứ 17 (麗 ) là rực rỡ đẹp đẽ. Do vậy, người cho lệ là con hàu thì bảo Nhật Lệ là ngựa trạm qua
bãi hàu. Mới nghe thấy có lý vì địa danh Quán Hàu nằm trên đường thiên lý vượt
qua sông Nhật Lệ. Người khác hiểu lệ là nước mắt lại cho rằng Nhật Lệ là ngày
buồn, ngày của nước mắt, rồi viện ra hai chuyện tình lâm li trong lịch sử để
minh hoạ: Rằng năm 1044 vua Lý Thái Tông
đưa quân vào đánh Chiêm Thành chém được
vua Chiêm là Sạ Đẩu, bắt sống thứ phi của Sạ Đẩu là nàng Mỵ Ê đưa về Đại Việt.
Đoàn chiến thuyền của Lý Thái Tông hành diện đến Lý Nhân, vua sai nội nhân thị
nữ gọi Mỵ Ê sang hầu. Nàng phẩn uất, ngầm quấn chăn vào người rồi nhảy xuống
sông tự vẫn. Xác nàng trôi về phương nam, dạt vào sông Nhật Lệ...Lại vào năm
1306 tức 263 năm sau vụ Mỵ Ê, vua Trần Anh Tông muốn giữ hoà hiếu với Chiêm
Thành bèn gả công chúa Trần Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Phải vâng lệnh
cha lấy người mình không yêu, nàng Huyền Trân khóc suốt cuộc hành trình từ Đại Việt vào đất Chiêm. Nước mắt nàng dâng
đầy thành sông Nhật Lệ...Nhưng tuyệt đại đa số người ta giải thích Nhật Lệ (日麗 ) là
"Ngày Đẹp". Nghe ra không ổn, vì tên một con sông sao lại đưa đơn vị
thời gian là ngày vào ? Với lại muốn là
ngày đẹp thì tính từ đẹp (Lệ) phải đứng trước danh từ ngày (Nhật) thành ra Lệ
Nhật, cũng như tính từ thơm (Hương) đứng trước danh từ sông (Giang) để có Hương
Giang vậy. Thực ra trong văn phạm chữ
Hán chữ Lệ (麗) có thể "đóng" nhiều vai. Khi là động từ nó chỉ sự phụ thuộc,
kèm theo, liên quan. Khi là tính từ hoặc danh từ nó chỉ sự đối xứng, đẹp đẽ, rực
rỡ (6). Nếu quan niệm chữ Lệ trong Nhật Lệ
là tính từ thì Nhật Lệ không phải là một từ kép để chỉ con sông, mà
thành ra một câu có nghĩa: Mặt trời (thì) rực rỡ. Đối tượng quan sát ở đây là mặt
trời nói chung. Vì đứng trên núi, đứng ở biển, hoặc bay trong không trung mà thấy
mặt trời mọc đều nói được như thế. Cũng giống như người xưa viết 風和日麗 (phong hoà nhật lệ) tức là gió (thì) êm, mặt
trời (thì) rực rỡ. Gió và mặt trời ở đây cũng chung chung, không chỉ vào một nơi
nào cụ thể. Do vậy tôi vẫn nghỉ rằng Nhật Lệ trong trường hợp này là một danh từ
kép chỉ một con sông cụ thể ở thành phố Đồng Hới Quảng Bình. Nó được ghép bởi một
danh từ đơn (Nhật) với một danh từ đơn khác (Lệ) và ngầm hiểu có đại từ sở hữu
"chi" (之) ở giữa.
Cũng như khi ta nói "nhân tài" ( 人才) hoặc "nhân lực" (人力 ) là ta
đã giản ước đi chữ "chi" ( 之 ) của hai mệnh đề "nhân chi
tài" và "nhân chi lực", tức
tài của người và sức của người. Trong
quá trình viết bài này tôi may mắn được Giáo sư Ngô Đức Thọ (7) đưa cho tham khảo
quyển "Nhật Dụng từ điển" của Đài Bắc xuất bản 1990. Ở mục chữ Lệ (麗) là danh
từ, tác giả sách dẫn ra một câu thơ của Hồ Thiên Du: 日之麗不無之燭 也 ( nhật chi lệ bất vô chi chúc giả)
nghĩa là : sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời thì không nơi nào là nó không chiếu
đến được. Lấy ba chữ đầu 日之麗 (nhật chi lệ) và giản ước đi chữ chi ( 之),
ta có từ 日麗 (nhật lệ) có nghĩa là SỰ RỰC RỠ CỦA ÁNH MẶT
TRỜI. Hẳn là người xưa đã đứng ở bờ nam dòng sông, nay là thành Phố Đồng Hới
nhìn về hướng đông là cồn cát Bảo Ninh những lúc mặt trời mọc. Khi mặt trời nhô
lên khỏi đụn cát thì mặt sông như được dát vàng lấp lánh trên một chiều dài hàng trăm mét. Người Đồng
Hới vẫn có cái thú ra bờ sông ngắm mặt trời mọc. Dẫu có đến ngàn vạn lần thì vẫn
cứ háo hức như là mới thấy lần đầu.
Vâng, đấy là Nhật Lệ, là dòng sông làm nặng lòng nhiều tao nhân mặc khách của
vùng đất Quảng Bình của miền Trung.
************
(1): Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh NXB
Thuận Hoá 1994
(2): Lịch sử Việt Nam tập I-NXB KHXH 1976
(3): Đại Việt sử ký toàn thư NXB KHXH năm 1998
(4): Lịch sử Việt Nam tập I- nhiều tác giả NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp 1983.
(5): Sử ký Quảng Bình của Nguyễn Tú 1996
(6): Hán văn Giáo khoa thư tập I- NXB Đà Nẵng 1997 của Võ Như
Nguyện và Nguyễn Hồng Giao.
(7): Giáo sư Ngô Đức Thọ nguyên công tác ở Viện Hán Nôm ,
người đã thâm niên trên 50 năm dịch chữ
Hán.