Ngày nay người ta chơi thơ vào dịp tết với nhiều kiểu: Treo cờ thơ, bình thơ, thả thơ bay lên trời,
chép thơ vào thúng mủng rổ rá mang
đi triển lãm. Riêng ông Phạm Mạnh Danh (1) cách nay gần thế kỉ có kiểu chơi thơ
không mấy ai theo được. Kể như ở Việt
Nam, ông là thủy tổ của nghệ thuật sắp đặt, không sắp đặt đồ vật mà sắp đặt thơ. Xin giới thiệu sau đây 2
trong rất nhiều kiểu chơi của ông Phạm Mạnh Danh để quý vị đọc chơi.
Kiểu 1. Rút bốn câu thơ (chữ Hán đã phiên âm) trong bốn tác
phẩm khác nhau của Tàu, ghép lại có một
bài thơ tứ tuyệt đủ niêm luật, dịch ra sẽ có bốn câu trong truyện Kiều.
1.a
Lưu thù dư tình bổ hóa công
( rút trong Liễu Trai)
Hồng nhan lưu lạc hận nan cùng ( rút trong Bách Mỹ)
Sinh tiền cá cá thuyết ân ái
(rút trong Kim Cổ kì quan)
Mạnh lý vô thời tổng thị khô (rút trong Thăng Bình truyện)
Dịch
Phụ phàng chi mấy hóa công
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay chết xuống làm ma không chồng.
1.b
Quế luân tà chiếu phấn lâu không. (rút trong Tình sử)
Thủy tế, hoa gian ảnh đạm nùng. (rút trong Trụ Xuân Viên)
Trù tướng đông lân thiên thụ tuyết (rút trong Thi Lâm)
Hải đường khai tận nhất đình hồng (rút trong Đường thi)
Dịch
Gương Nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân
Hạt sương trĩu nặng, cành xuân la đà
1.c
Thùy gia tiêu tức đậu đông phong (rút trong
Tình sử)
Khứ khứ ly ly tổng tụy dung
(rút trong Ỷ Lâu mộng)
Liệu đắc kim sinh vô ngã phận ( rút trongTái sinh duyên)
Lai sinh hoặc giả ký trùng phùng (rút trongTái sinh duyên)
Dịch
Vì ai ngăn đón gió đông
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi
Trùng phùng hù dọa có khi
Thân này thôi có còn gì mà mong
1.d
Nhất niên xuân sự đáo trà mi
(rút trong Đường thi)
Dĩ bị du phong thám đắc tri (rút trong Thi lâm)
Nhuyễn ngọc ôn hương thùy vị tích (rút trong Ỷ Lâu mộng)
Hối giao vũ đố dữ phong xuy
(rút trong Hồng Lâu mộng)
Dịch
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Kiểu 2. Chọn nguyên một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt trong
sách Tàu (có chua rõ tên bài thơ, tên tác giả,
tên sách) sau khi dịch ra có bốn câu thơ Nôm của bốn tác phẩm khác nhau.
2.a
ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ
(Thơ của Thôi Hộ, Đường thi)
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Dịch
Lét trong cửa tía mây trùng
(rút trong tác phẩm Ngọc hoa)
Vẻ hồng kia với má hồng đua tươi (rút trong Ngọc kiều lê)
Trông theo nay chẳng thấy người (rút trong Chinh phụ ngâm)
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông (rút trongThúy Kiều)
2.b
XÍCH BÍCH HOÀI CỔ
(Thơ của Đỗ Mục, Đường thi)
Chiết kích tầm sa thiết vị tiêu
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều
Đông phong bất dữ Chu Lang tiện
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị kiều
Dịch
Đá hoa sẵn, nhạc vàng treo
(trong tác phẩm Bích câu kỳ ngộ)
Nhìn xem dấu cũ ra chiều hoài nhân (trong tác phảm nữ Tú
tài)
Gió đông chẳng đoái vừn xuân (trong tác phẩm Lục Vân Tiên)
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều (trong tác phẩm Thúy Kiều)
2.c
ĐỀ HOA CÚC (thơ của Đặng Thị, Tình sử)
Lương công diệu thủ ổn an bài
Bút để di lai chi thượng tài
Lục diệp hoàng hoa trường tự mỵ
Đằng nhân bất hứa điệp phonh lai
Dịch
Bức tranh ai khéo vẽ vời
(trong tác phẩm Bướm Hoa)
Phẩm đề xin một vài nhời thêm hoa ( trong tác phẩm Thúy Kiều)
Rõ ràng xanh lá đỏ hoa
(trong tác phẩm Tống
Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng (trong tác phẩm Hoa
Tiên)
-------------
(1)
Tác giả sách Bút hoa thi thảo, xuất bản 1942 ở Nam Định