Quán Thế Âm Bồ tát
Hai bu với hòa thượng Thích Thanh Từ
ở Thiền viện Thường Chiếu
ở Thiền viện Thường Chiếu
Bạn TTM-Gốc Mai hỏi bu về “Ý nghĩa hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm”?
Về việc này Hòa
thượng Thích Thanh Từ đã có bài khá dài, hợp với mọi trình độ, bu nói lại không
thể bằng được.
Thực ra hiểu cho
thật kỹ nhân vật Quán Thế Âm trong Phật
giáo thì không dễ tí nào. Mỗi môn phái,
mỗi nền văn hóa có cách nhìn khác nhau về
bồ tát Quán Thế Âm. Hai mươi kinh luận dưới đây đều có nói đến Quán Thế
Âm nhưng hình ảnh ngài qua đó không giống nhau hoàn toàn, ngoại trừ bản tính
ngài là đại từ, đại bi, chuyên cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh khỏi đau
khổ. Hai mươi kinh luận đó là:
1- Kinh Hoa
Nghiêm Q (quyển) 51.
2- Bát nhã
ba la mật đa tâm kinh
3- Kinh Đại
Phật đính thủ lăng nghiêm Q.6
4- Kinh Đại
bảo tích Q.82,100.
5- Kinh Bi
hoa
6- Kinh Đại
nhật Q.1 (phẩm Cụ duyên)
7- Kinh
Thiên quang nhãn Quán tự tại bồ tát bí mật pháp.
8- Kinh Kim cương khủng bố tập hội phương quảng
nghi quỉ Quán tự tại bồ tát tam thế tối thắng tâm minh vương.
9- Kinh Đà
la ni tập Q.5
10- Luận
Đại trí độ Q.26, 30, 34.
11- Luận Du
già sư địa Q.7
12- Pháp
hoa kinh văn cú Q.10 hạ
13- Pháp
hoa nghĩa kí Q.8
14- Chú duy
ma cật kinh
15- Bát nhã
tâm kinh u tán quyển thượng
16- Đại
Nhật Kinh sớ Q.5
17 -Tam bộ
bí thích
18- Đại
Đường Tây vực kí Q.3
19- Huyền ứng âm nghĩa Q.5
20- Pháp
uyển châu lâm Q.17.
(Thống kê theo Phật
Quang đại từ điển, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản. Sa môn Thích
Quảng Độ dịch)
Phật Quang đại từ
điển dựa vào các kinh luận trên để đưa ra
định nghĩa về Quán Thế Âm bồ tát, rất dài và có nhiều thuật ngữ không phải
đọc lên hiểu ngay. Vậy, thay vì chép lại định nghĩa, hoặc nói về “Ý nghĩa hình
tượng Bồ Tát Quán Thế Âm” bu tui mời TTM và các bạn đọc phần 1 phẩm 25 của kinh
Diệu Pháp Liên Hoa do hòa thượng Thích Thanh Từ giảng giải, hy vọng các bạn sẽ
ngộ ra được nhiều điều…
Phẩm 25
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN
“Quán”
là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âm là xem xét âm thanh
thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ tát. Ngài lắng nghe tiếng kêu than
của chúng sanh, khởi lòng thương xót đến cứu độ cho hết khổ. “Phổ Môn” là cái
cửa thông suốt khắp tất cả. Bồ tát Quán
Thế Âm tu hạnh từ bi, hay lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh mà hiện thân để hóa độ. Phương tiện hóa độ của
ngài là cửa pháp thông suốt tất cả, ai ai cũng có thể vào tu, không giới hạn. Mục đích của phẩm này là phá
tưởng ấm vào Ngũ địa và Lục địa Bồ tát.
CHÁNH VĂN
1- Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ tát từ
chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu,
chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ tát do nhân
duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”. Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ tát: “ Thiện nam
tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán
Thế Âm Bồ tát này một lòng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng
tăm kia, đều được gải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát này dầu vào trong lửa lớn,
lửa chẳng cháy được vì do sức oai thần của Bồ tát này mà được như vậy.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã
não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giá sử
gió đen thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỷ la sát, trong ấy nếu có
một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời các người đó đều được thoát
khỏi nạn quỷ la sát . Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
GIẢNG
Phẩm
này người đương cơ đứng ra thưa hỏi là Bồ tát Vô Tận Ý. Vô Tận Ý là ý tưởng
không cùng, không dứt. Tại sao Bồ tát mà ý tưởng nhiều như vậy ? Như đã nói,
phẩm này là phá tưởng ấm. Ý tưởng của chúng sanh có trăm ngàn muôn ức thứ, cái
gì cũng nghĩ tưởng được, nên nói là Vô Tận Ý. Nhưng nếu niệm danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ tát thì mọi nghĩ tưởng dừng lại và hết khổ. Chỗ này nếu chúng ta không
hiểu rõ sẽ lầm. Trong kinh Nhật tụng phẩm Phổ Môn được liệt vào kinh cầu an, ai
đau bệnh tụng phẩm này cầu cho an ổn. Vậy phẩm Phổ Môn có phải để cầu an không?
Trong phẩm này Phật nói lên bổn sự của
Bồ tát. Bồ tát Quán Thế Âm ở đời quá
khứ, Ngài khởi tâm từ bi tu hạnh quán xét tiếng kêu than của chúng sanh ở thế
gian mà hiện thân đến cứu độ cho mọi loài hết đau khổ. Nếu chúng ta dựa trên
chữ nghĩa hình tướng thì ngang đây bị
kẹt lớn. Như câu: “Có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát này, dầu vào trong
lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức oai thần của Bồ tát này được như vậy”.
Quý vị đọc phẩm này có tin lời Phật nói không? Đệ tử Phật mà không tin Phật thì
tin ai? Vậy nếu có người nhóm một đống củi đốt lửa cháy hừng hực, bảo quý vị
niệm Quán Thế Âm Bồ tát và đi vào đống lửa đó, xem thân quý vị có cháy không?
Nếu thân quý vị bị cháy nám thì lời Phật nói không đúng. Quý vị nghĩ sao đây?.
Lại một đoạn nữa: “Nếu bị nước lớn làm
trôi, xưng danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm
liền được chỗ cạn”. Như vậy những người
đi biển, thuyền chìm niệm danh hiệu Bồ tát, tất cả đều gặp chỗ cạn, hay cũng có
người chết chìm? Những sự việc này nếu hiểu theo sự tướng thì thấy chống trái,
còn hiểu theo lý tánh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật nói Bồ tát Quán Thế âm tu
hạnh Phản văn văn tự tánh, tức là xoay lại nghe tánh nghe của mình. Tánh nghe
là cái thể chân thật của mỗi người, không có tướng mạo, không có hình dáng. Đã
không có hình dáng tướng mạo thì lửa nào thiêu được, nước nào chìm được? Nên
nói niệm Quán Thế Âm tức là lắng nghe tánh nghe của chính mình, thì mọi chướng
nạn của lửa nước đều qua khỏi.
Lại một đoạn nữa: “ Có trăm nghìn muôn ức
chúng sanh vì tìm vàng bạc, lưu ly…vào biển lớn, giả sử gió đen thổi ghe thuyền
họ trôi tấp nơi nước quỷ la sát, nếu có một người trong đó xưng danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ tát, thời các người đó thoát khỏi nạn quỷ la sát”. Chuyện này phải
hiểu như thế nào? Xưa có một vị tướng công, tới hỏi đạo một tiền sư, ông nêu
câu chuyện trên và hỏi rằng: “Ông là một vị tướng công mà đi hỏi vớ vẩn như vậy
sao? Vị tướng công nghe chê mình nên nổi tức, mặt đỏ gay. Thiền sư chỉ: Đó, hắc
phong đó.
Vậy hắc phong là gì? Thiền sư không nói
hắc phong là gió ào áo mây đen kéo mù mịt, mà nói hắc phong là cơn giận là cơn
giận của con người. Sân giận nổi lên tự mình chịu khổ họa, lại còn gây khổ lụy
cho người khác. Ví dụ ông A vô cớ kêu tên ông B chưởi. Ông B nổi sân, xông tới
đánh đập ông A. Ông A bị đánh đau liền đánh lại ông B. Đó là ông B bi hắc phong
thổi phiêu bạt tới nước la sát, bị quỷ la sát hại rồi. Nếu ông B vừa nổi sân,
biết mình đang sân, liền niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, cơn sân lắng dịu
lần rồi hết, đâu có đánh ông A và bị ông
A đánh lại đau khổ. Như vậy, Không phải Bồ tát Quán Âm cứu ông B thoát nạn quỷ
la sát là gì. Hiểu như thế mới thực tế. Chớ trong lục địa cũng như hải đảo
ngoài biển khơi, đảo nào ở đâu, có người ở
hay không có người ở, có quỷ hay không có quỷ, mọi người đều biết hết.
Vậy nước la sát nằm ở vị trí nào trên địa cầu này? Như vậy hắc phong và nước
quỷ la sát biểu trưng cho lòng sân giận của con người, rồi con người theo đó mà
tạo nghiệp ác thọ quả báo khổ đau. Còn Quán Thế Âm là biểu trưng lòng từ bi,
lòng từ bi khởi lên thì sân giận tiêu tan, nên nói bị hắc phong thổi phiêu bạt
đến cõi nước la sát, niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì không bị hại là vậy.