Tượng chúa Ki tô ở Vũng Tàu
(Được giới kiến trúc đánh giá cao nhất thế giới)
Bu đứng trước đoạn dốc cuối cùng lên tượng chúa Ki tô_
Núi Tao Phùng còn gọi là núi Nhỏ, ở phía nam
( lệch tây chút xíu) Thành phố Vũng Tàu cạnh đường Hạ Long. Có lẽ xưa kia nơi
đây từng hội ngộ trai anh hùng với gái thuyền quyên li kì lắm chăng. Bu tò mò
tìm hiểu xem mà chưa có manh mối gì. Chỉ biết hiện giờ người Việt, người Tây, người
Tàu… đến đây để chiêm bái chúa Ki Tô. Ngài đứng đó đầu chạm mây, chân dẫm lên đỉnh Tao
Phùng ở bình độ 170, thân cao 32 mét, sãi tay 18 mét, như muốn ôm vào lòng toàn cõi nhân gian khổ đau và tội lỗi này.
Bu cũng tự thấy mình có tội. Mấy năm nay du
ngoạn thắng cảnh Vũng Tàu trên rừng dưới biển toàn ngồi cáp treo, hoặc ô tô máy
lạnh. Lên tượng chúa phải trèo gần một ngàn bậc cấp thì ngại lắm. Nhưng chẳng
nhẽ “đường đường một đấng nam nhi” lại thua các bà sồn sồn vượt cả ngàn cây số
đường đất từ ngoài trung ngoài bắc vào, thua các bà Tây chân run lưng còng ở
bên kia bờ đại dương sang đây vừa đi vừa chống gậy. Thôi thì một liều ba bảy
cũng liều, “phen ni ta quyết leo lên đỉnh, xin chúa linh thiêng xá tội lười”… hehehe.
***
Nhưng
mà các bác ạ, không ngờ con đường dốc lên đỉnh Tao Phùng lại tuyệt vời đến thế.
Hai bên đường là hoa lá, là các trạm dừng chân có ghế đá ngồi ngắm trời mây, ngắm
nước phun và cá vàng bơi lội. Có quầy bán hàng lưu niệm, ngay gần chân tượng
chúa vẫn có nơi bán thức ăn và giải khát. Nhưng còn đẹp hơn con đường dốc kia
là lúc ta quay lại nhìn sườn núi, nhìn con đường Hạ Long và mũi Nghinh Phong
như con sấu khổng lồ đang nhoài ra biển.
Cũng ngần ấy phong cảnh nhưng càng lên cao càng như mới nhìn lần đầu. Cảm ơn
Thiên chúa đã tạo dựng ra trời đất muôn vật để kẻ có tội là con đây được lạc
vào giấc mơ có thật này.
Tiếc thay, lên đến chân tượng đã gần 12 giờ
trưa, hết giờ vào thăm bụng chúa. Bu đành ngồi bó gối nghe mọi người “bình loạn”
chuyện nọ xọ chuyện kia... Người lên trể giờ hỏi người vừa từ trong bụng chúa
ra
-
Trong bụng ngài có chi hay không vậy
- Có cầu thang xoắn ốc cao 133 bậc, trèo lên đến vai chúa mệt bở hơi tai.
-
Nghe bảo đi bộ được trong cánh tay chúa ra tận cổ tay sao
-
Đi được, nhưng đường này đã bị người ta rào lại bằng lưới sắt, cấm
tiệt bọn người chuyên ra đây bắt tổ yến, gây lộn, làm ồn ào, xả rác.
- Tức là cánh tay ngài có cửa sổ thông ra trời
-
Có chớ, trước đây tớ đã từng ngắm biển trời qua các cửa sổ này,
thú vị lắm, vì thế lũ chim yến mới vào làm tổ được.
-
Mà này, bạn có thấy quả tim chúa không.
-
Tim có nhưng ngài đeo trước ngực, lồng ngực trống rổng, không có
gì.
- Ừ! Thế mới phải, đã là tượng
thì cần gì phải có tim có phổi, có lục phủ ngũ tạng, vậy mà nghe đâu có vị lãnh
đạo nào đó bảo ông thánh Gióng và con ngựa
ông ấy cần phải có tim. Riêng trái tim ông Gióng phải có hai đường động mạch và
tĩnh mạch… hihi
***
Bu tui tìm một góc yên tĩnh ngẩng nhìn khuôn mặt
từ bi của chúa Ki tô và thầm nghĩ: “Con xin cáo lui, vì chờ đến hai giờ chiều để
được vào trong bụng ngài thì hiểu biết của con về ngài cũng không thêm dược gì.
Ngắm ngài lồng lộng giữa trời mây con
nghỉ đến cuộc đời ngài trước đây chép trong Kinh thánh sao mà đắng cay tủi nhục.
Khi còn nằm trong bào thai, ngài đã phải
cùng mẹ ngồi vắt vẻo trên lưng lừa đi mấy trăm cây số từ Na da rét đến Bê lem theo
lệnh của hoàng đế La Mã Au gút tô. Ông
này lệnh toàn dân về đó để khai báo nạp
thuế đúng theo tài sản của mình. Cả vùng Bê lem người đông như kiến, không có
chỗ ăn chỗ nghỉ, ông Giu se nhanh chân tìm được một chuồng nuôi súc vật, liền dọn
dẹp sạch sẽ để bà Ma ri a ngã lưng. Tối
đó bà chuyển dạ và sinh ra ngài. Ông Giu
se đặt ngài nằm trong máng cỏ vốn là cái đựng thức ăn của súc vật. Có chuyện lạ, cũng tối hôm ngài ra đời, vùng
trời Bê lem tự nhiên bừng sáng làm dân
chúng ngỡ ngàng hoảng sợ. Các nhà thông
thái bảo nhau ở Bê lem vừa xuất hiện một nhân vật phi thường. Tin ấy làm vua Hê
rô đê sợ có ngày nhân vật phi thường kia chiếm mất ngai vàng, liền hạ lệnh giết
hết trẻ em từ hai tuổi cho đến đứa mới
sinh. May thay, ông Giu se và mẹ ngài đã kịp bế con trai vượt bao nhiêu khổ ải
trốn sang đất Ai Cập và ở luôn đấy cho đến khi ngài hết tuổi thiếu niên…Khi đã
trưởng thành ở quê nhà, ngoài việc biến nước lả thành rượu ngon trong một tiệc
cưới, chữa lành bệnh hủi, bệnh mù lòa và tứ chứng nan y cho mọi người, ngài đã
làm một việc kì diệu khi vào thành Ca phac na um. Một đám tang đi ngược chiều
ngài, quan tài chưa đậy nắp, trong đó là một chàng trai hồn đã lìa xác, người mẹ
già vật vã khóc lóc làm gan ruột ngài xốn xang. Ngài giơ tay chạm vào áo quan,
mắt nhìn vào tử thi “Này người thanh niên, ta bảo cậu hãy chỗi dậy”. Sau câu
nói ấy chàng trai bổng ngồi lên nhìn mọi người như chưa có chuyện gì xẩy ra. Nhưng ngài càng nổi tiếng thì người của phái
Ma ri sêu và quan cai trị La Mã càng căm ghét. Ngay cả dân Do Thái ở Na da rét
quê hương ngài cũng không chấp nhận ngài. Họ bảo thiên sứ của chúa trời phái xuống
trần gian không thể là con ông thợ mộc Giu se và bà nội trợ Ma ri a hèn mọn, đã
thế lại ra đời trong chuồng nuôi súc vật với cái máng cỏ. Trong số mười hai môn
đệ của ngài có tên Giu đa it ca ri ốt phản bội. Chính hắn chỉ điểm cho các thượng
tế, các kinh sư, các trưởng lão theo phái Pha ri sêu bắt và đóng đinh ngài lên
cây thánh giá theo kiểu người La Mã. Bốn
tên lính áp giải ngài đi lên Núi Sọ, trên vai ngài là cây thánh giá nặng oằn
lưng, ngài đi xiêu vẹo với bàn chân rớm máu.
Khi cây thánh giá có thân ngài được dựng lên, một tên lính La Mã dùng mũi giáo đâm vào mạng sườn làm máu chảy
ra như suối, ngài gục đầu giã từ cõi đời”. Nhưng phép lạ của thiên chúa đã làm
ngài sống lại và lên trời chỉ ba ngày sau đó…
***
Từ trời,
ngài lại trở về Na da rét, về Giê ru sa lem và nhiều nơi khác tìm gặp các môn đệ
và dân chúng. Ngài tuyên bố “Ta được ban cho toàn bộ thẩm quyền cả trên
trời lẫn dưới đất”(1) hoặc “Ta là ánh sáng của thế giới! ai theo ta
không phải bước đi trong bóng tối mà là sẽ sống cuộc sống của mình trong sự
sáng”(2) . Nhưng thưa ngài hình như công việc trên trời nhiều quá làm
ngài xao nhãng công việc dười đất. Khi còn ở trần gian ngài gần gũi mọi người,
không phân biệt già trẻ trai gái, địa vị xã hội hoặc phe nhóm có niềm tin khác
nhau. Ngài xót thương họ, dùng phép lạ của thiên chúa chữa cho họ lành những bệnh
quái ác như bị ma quỷ ám, mù lòa, phung hủi, tàn tật. Ngài làm sống lại người
đã chết nằm trong quan tài thậm chí có người đã nằm trong huyệt mộ…Vậy mà ở cái
thế kỉ 20 và 21 này con chưa thấy một phép
lạ nào của ngài đặng cứu giúp kẻ đói nghèo, bệnh tật, hoặc chết thảm trong cảnh
khói lửa binh đao. Ngay như ở nước Việt con đã có khoảng 4,8 triệu người nhiễm
chất độc màu da cam do quân đội Mỹ rãi xuống miền nam cách nay 53 năm. Bao
nhiêu đứa trẻ sinh ra bị dị tật, quái thai, bao nhiêu ông bố bà mẹ nuôi con
trong nước mắt. Phải chăng thiên chúa căm giận loài người đã không tôn thờ ngài
như ngài mong muốn. Điều này có thể lắm vì xa xưa thiên chúa đã một lần tạo nên
trận đại hồng thủy tiêu diệt hết loài người do đạo đức họ xuống cấp, nhân cách
sa đọa, chỉ biết hưởng thụ và tôn thờ chính mình chớ không thờ phụng thiên chúa
nghiêm túc. Và có vẻ như thiên chúa muốn khiển trách luôn cả chúa Ki tô nữa hay
sao ấy. Từ năm 1929 cho đến nay người ta đã thống kê được 10 thảm họa giáng xuống
nhân loại vào đêm giáng sinh. Con chỉ xin dẫn ra hai trường hợp thảm khốc gần
đây nhất là trận động đất mùa giáng sinh 26.12.2003 làm 26.271 người dân Iran chết trong lúc đang an giấc. Đúng một năm sau, vào
mùa giáng sinh 26.12.2004 thiên chúa lại dâng sóng thần ở Ấn Độ dương có sức mạnh
tương đương 23.000 quả bom nguyên tử, giết chết 230.000 người Thái Lan, Mã Lai,
In Đô... Nhân gian vừa mừng chúa Ki tô giáng sinh vừa khóc thương hàng chục vạn người chết thảm do
sự nổi giận của thiên chúa là sao vậy?
***
Thưa ngài, con đã đọc nhiều lần lời dạy của
ngài ở mục “Bài giảng trên núi” trong Thánh kinh: “Đừng chống cự người ác, trái lại
nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện
anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” (3). Nước
Việt con không may ở gần kẻ ác, rất ác nữa là khác. Từ năm 1992 nó tặng nước
con 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, phát triển lâu dài, hợp tác toàn diện, hướng
tới tương lai”. Thế nhưng, từ 1974 nó đã cướp không của nước con đảo Hoàng Sa. Nếu
xem đảo này là cái áo trong thì theo ngài nước con phải đưa luôn cho kẻ ác ấy cả
áo ngoài là dãi đất hình chữ S. Vậy 90 triệu con dân nước Việt ở vào đâu, hay
cam tâm làm nô lệ cho nó. Suy đi tính lại,
có lẽ con phải nghe theo lời dạy của Đảng cộng sản nước con là xây dựng thiên
đường trên mặt đất. Ở cái thiên đường ấy con người làm theo năng lực hưởng theo
nhu cầu, sung sướng tột độ. Năm 1961 ông
Tố Hữu nhà thơ lớn nước con nói “Miền bắc thiên đường của các con tôi”(4)
là lạc quan tếu, cũng có thể ông làm quan to thì các con ông ấy có thiên đường,
còn dân đen thì đang ở gần địa ngục. Muốn có thiên đường trên mặt đất là phải
giàu có, muốn giàu có phải đạt năng suất lao động cao. Sau 39 năm đất nước thống
nhất mà năng suất lao động nước con còn thua Indonexia 10 lần, thua Thái Lan 30
lần, thua Nhật 135 lần. Nhưng đảng con bảo toàn dân cứ tuyệt đối tin theo đảng
để tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, tiếp theo tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản là có thiên
đường. Vâng, 90 triệu dân tin thì con tin, mà không tin thì cũng chẳng biết tin
vào cái gì nữa… huhuhu. Có lẽ con hơi bị dông dài, thôi xin bái biệt ngài muôn
vàn tôn kính”
------------------------------------------------------
1- Trang 602 Truyện
Kinh Thánh của PEARL BUCK
2- Trang 506 Truyện Kinh Thánh của PEARL BUCK
3- Trang 1295 Kinh Thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước
4- Bài ca mùa xuân 1961 của Tố Hữu.