Mấy hôm nay báo giấy, báo mạng, truyền hình… nói nhièu về ngày sinh chủ tịch Hồ chí Minh. Khắp chốn cùng nơi đều thi đua nhau học tập đạo đức tác phong của chủ tịch. Một vài nơi, một số nhà chăn dân mũ cao áo dài lại tụng niệm cái tham luận của ông Nguyễn Tất Hiển 136 Tôn Thất Đạm - Q1 Th. Ph. Hồ Chí Minh. Bởi thế Bu tôi tái bản lại Entry này để các bạn tham khảo.
I - Tôi được xem tác phẩm “TRĂNG SÁNG TRONG THƠ BÁC, TRONG TÊN BÁC” của ông treo trong nhà một vài bạn thân. Xem xong bỏ đó vì công việc mưu sinh chiếm hết thời gian và sức lực, không nghỉ đến làm gì. Nhưng mới đây, tình cờ đọc được tham luận của ông : “Ý nghĩa tên Bác một phần quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh” ở “Tọa đàm Khoa học do Chi nhánh Bảo tàng HCM tổ chức ngày 30.8.99” và ở “Hội thảo Khoa học do Viện Khoa học Xã hội TP. HCM tổ chức ngày 14.9.99” mới biết tác phẩm của ông một thời nổi như cồn, làm xôn xao dư luận và báo chí cả nước. Thì ra ngày 2.9.1997 ông đã công bố tác phấm “TRĂNG SÁNG TRONG THƠ BÁC, TRONG TÊN BÁC” tại bảo tàng HCM , ngay sau đó bài viết về tác phẩm này của ông “được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội và Đài tiếng nhân dân TP. HCM, được đăng trên báo Nhân dân số 38 ngày 21.9.1997, đăng trên báo Văn nghệ Đồng Tháp số 3 tháng 5.1998, đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội của Viện Khoa học Xã hội số 38 quý 4 năm 1998 vào dịp kỷ niệm TP HCM 300 năm…Và hân hạnh được đánh giá cao của chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, của Bí thư Thành ủy TPHCM Trương Tấn Sang, của trợ lý Tổng bí thư Trung ương ĐCS Hồng Hà….”(1)
Ngần ấy sự kiện về tác phẩm “TRĂNG SÁNG TRONG THƠ BÁC, TRONG TÊN BÁC” làm tôi bỏ công tìm hiểu và thấy cần phải trao đổi với ông cùng các bạn viết blog, xin được các vị chỉ giáo thêm.
* Để các bạn có khái niệm về tác phẩm của ông Nguyễn Tất Hiển (như ảnh ở đầu bài) tôi mô tả thêm cho rõ hơn:
1- Những câu chữ Hán viết theo chiều dọc
+ Câu bên phải hình chủ tịch Hồ Chủ Tịch :
古 人 不 識 今 時 月 (cổ nhân bất thức kim thời nguyệt)
+ Hai câu bên trái hình Hồ Chủ Tịch
Câu 3 chữ: 胡 志 明 (Hồ Chí Minh)
Câu 7 chữ: 今月 曾 經 照 古人 (Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân)
2- Những câu chữ quốc ngữ và chữ Hán viết theo chiều ngang.
HỒ (cổ 古, nguyệt 月 )
Cổ nhân bất thức kim thời nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân
Người xưa không biết trăng ngày nay
Mặt trăng ngày nay từng chiếu sáng người xưa
CHÍ (sĩ 志, tâm 心 )
Chí sĩ có nhiệt tâm
MINH (nhật 日, nguyệt 月 )
Luôn luôn sáng suốt
Trích “Trăng sáng trong thơ Bác trong tên Bác”
Tác giả Nguyễn Tất Hiển
II – Cơ sở lập luận của ông Nguyễn Tất Hiển
Trước hết ông cho rằng chữ Hồ (胡) gồm có chữ cổ (古) ghép với chữ nguyệt (月). Cổ là cũ, là xưa. Nguyệt là mặt trăng. Theo đó chữ Hồ được ông cho là trăng xưa. Tiếp theo ông hoán vị một vài từ tong bài thơ “Bả tửu vấn nguyệt” (Nâng chén rượu hỏi trăng) của Lý Bạch (2). Bài thơ Lý Bạch gồm 16 câu, trong đó ông lấy ra 2 câu:
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt (câu 1)
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân (câu 2)
Nghĩa là
Người nay không thấy trăng xưa
Trăng nay thì đã từng soi sáng người xưa
Đến đây ông tuyên bố “ Vậy muốn có chữ Hồ phải hoán vị, đưa chữ Cổ (câu 1) từ dưới lên vị trí chữ Kim, đem chữ Kim xuống vị trí chữ Cổ, để chữ cổ ở câu 1 phù hợp với chữ Nguyệt ở câu 2 tạo thành chữ Hồ” (1). Sau khi hoán vị, hai câu thơ Lý Bạch thành ra:
Cổ nhân bất thức kim thời nguyệt (câu 1)
(chữ Kiến của Lý Bạch được ông thay bằng chữ Thức )
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân (câu 2)
Nghĩa là
Người xưa không biết mặt trăng ngày nay
Mặt trăng ngày nay từng chiếu sáng người xưa.
Với kết quả này ông viết: “Đó là những TƯ TƯỞNG và ĐẠO ĐỨC Hồ Chí Minh. Cái quý giá cần thiết ấy cũng sánh bằng lúc đêm tối cần có trăng sáng trên bầu trời. Đúng là “người đời xưa” không biết “trăng sáng ngày nay” vì họ đã mất từ lâu; song trăng sáng ngày nay trên đường đi tất yếu của nó , tiếp tục đẩy lùi bóng đêm , đem lại ánh sáng mới – Ánh sáng của một DANH NHÂN VĂN HÓA KIỆT XUẤT CỦA NHÂN LOẠI – HỒ CHÍ MINH”
III – Ông Nguyễn Tất Hiển nhầm lẫn chỗ nào ???
Trong “Tham luận” của mình ông dẫn ra “Hồ Xuân Hương, bà Chúa thơ nôm đã chiết tự chữ Hồ là Cổ Nguyệt”. Xin thưa rằng, bà Hồ Xuân Hương là nhà Hán học uyên thâm và là nhà thơ vui tính, bà dựa vào sự nhầm lẫn về chữ Nguyệt (月, mặt trăng) và chữ Nhục (月, thịt) để gọi mình là Cổ Nguyệt (trăng xưa) cho văn nghệ mà thôi. Còn nếu bà đứng lớp dạy học trò học chữ Hán thì bà phải giảng rằng chữ Hồ (胡 trong họ Hồ) gồm chữ Cổ (古) ghép cạnh chữ nhục (月) chứ không phải chữ nguyệt (月). Hai chữ này giống nhau như hai giọt nước nên thiên hạ dễ nhầm chữ nọ vào chữ kia. Khỏi phải dài dòng cho tốn “giấy mực”, bạn đọc lấy bất kỳ một quyển Từ Điển Hán Việt nào và tra chữ Hồ (chỉ họ Hồ) thì bạn phải tìm trong bộ nhục (月), còn nếu bạn tra vào bộ nguyệt thì vĩnh viễn bạn không có được chữ Hồ. Xin đơn cử vài từ điển;
- Từ Điển Hán Việt Thiều Chữu (1997) bộ nhục trang 517 : Hồ (胡) là yếm cổ, dưới cổ có mảng thịt sa xuống, râu mọc ở đấy là hồ tu.
- Từ Điển Nguyễn Tôn Nhan (2003) bộ nhục trang 662: Hồ (胡) là miếng da rủ thòng dưới cổ thú vật (như trâu, bò). Một loại võ khí cổ, thọ, sống lâu, rợ Hồ, Họ người (Hồ Hợi con trai Tần Thủy Hoàng đế)
- Sách Tìm về cội nguồn chữ Hán (1997, của Lý Lạc Nghị và Jim Waters) tại trang 982 viết : “ HV(Hán Việt) 胡 trong từ Bác Hồ [Chaiman Ho Chi minh], hồ cầm [two stringed violin] ABK (âm Bắc Kinh): bú 肉 nhục chỉ nghĩa, 古 cổ chỉ âm đọc, nghĩa gốc: cái yếm dưới cổ con bò” (chú ý肉 = 月, sẽ nói ở phần dưới)
IV – Sơ bộ vài nét về chữ Nguyệt và chữ Nhục
Như đã nói ở trên, chữ Hồ (trong họ Hồ) phải là chữ cổ đi với bộ nhục. Nhưng chữ nhục trong thời Giáp cốt văn là hình ảnh một khổ thịt. Trải qua các loại chữ Kim văn, Tiểu triện, đến thời Khải thư (cuối nhà Hán) chữ nhục có hình dạng 肉. Nhưng viết thế này nhiều nét, rắc rối, người ta biến nó thành 月, trong đó hai nét ngang song song, nối liền hai nét đứng. Còn chữ nguyệt hai nét ngang song song nhưng không chạm vào nét đứng bên phải (2). Như vậy cũng chưa ổn vì nhà nho viết bút lông, khó tạo ra kẻ hở giữa hai nét ngang và nét đứng bên phải khi viết chữ nguyệt. Chỉ cần sơ suất chút xíu là chữ nguyệt biến thành chữ nhục. Bởi vậy hiện nay trong sách vở người ta viết chữ nhục có hai nét giữa không song song mà mà tạo ra hình phểu như ảnh minh họa dưới đây.
a- Chữ nguyệt Giáp cốt văn
b- Chữ nguyệt trong sách in hiện tại
a- Chữ nhục Giáp cốt văn
b- Chữ nhục theo mô tả của Chính Tự Thông
c- Chữ nhục trong sách in hiện tại
V- Lời cuối
Là người Việt Nam tôi cũng như ông Hiển, hết lòng kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự Kính trọng thể hiện ở chỗ đánh giá đúng vai trò của Chủ tịch trong việc lãnh đạo toàn dân giải phóng ách nô lệ, khai sinh ra nước Việt Nam, sánh vai với các quốc gia khảc trên thế giới. Sự kính trọng còn thể hiện ở chỗ học tập tác phong đạo đức của Chủ tịch, để làm một công dân yêu nước có văn hóa. Hồ Chủ tịch là người khiêm tốn, Người không muốn ai ca ngợi mình ngoài cái mà mình có, càng không muốn dùng sự nhầm lẫn chữ nghĩa để ca ngợi như tường hợp ông Nguyễn Tất Hiển đã làm. Có thể ông thiếu cẩn trọng trong việc tra cứu Từ Điển mà nhầm lẫn, tôi có thể thông cảm với ông. Nhưng ông cố tình đưa hai câu thơ của Lý Bách ra để hoán vị, để thay đổi chữ Kiến thành chữ Thức nhằm phục vụ cho ý đồ của mình là vi phạm luật bản quyền của tác giả. Không hiểu các bạn đọc Entry này có chia sẻ ý kiến của Buluk không. Xin các bạn cho những lời chỉ giáo.
----------------------
1- Tham luận "Trăng sáng trong thơ Bác, trong tên Bác" của ông Nguyễn Tất Hiển