Thứ Ba, 27 tháng 12, 2011

« Bình Nhưỡng từ chối cho 200 lao động Bắc Triều Tiên bị kẹt ở Libya trở về nước, vì sợ họ sẽ loan truyền thông tin về cái chết của Mouammar Kadhafi và phong trào Mùa xuân Ả Rập ». Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã khẳng định như thế ngày 27/10/2011 trước báo chí Hàn Quốc, nhân vòng công du châu Á của ông (theo tin AFP). Một chuyện có vẻ khó tin trong thế kỷ 21 ! (Blog Quê choa)

Đọc tiếp ...

Nhìn từng đoàn người xếp hàng vật vã, nức nở trước linh cữu của Tổng tư lệnh Kim Chính Nhật, mình tin vẫn còn nhiều giọt nước mắt xuất phát từ tình thương yêu “máu thịt” như trong comment của anh Kòm – Tình yêu thương được vun tưới bằng chính sách ngu dân, u tối. Nhưng mình còn tin hơn rằng, phần lớn những giọt nước mắt ấy được nặn ra từ sự sợ hãi. Sự sợ hãi khi mỗi người dân phải đóng kịch với ngay chính những người thân yêu trong gia đình; khi nhà nhà trở thành trụ sở công an, người người làm mật vụ không công cho chính quyền. Cha con, ông cháu nhà họ Kim đang nợ nhân dân Triều tiên một biển nước mắt. (Thanh chung Blog Quê choa)

Đọc tiếp ...

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2011

"Cả tương lai của anh tùy thuộc khả năng khóc được không. Không chỉ sự nghiệp, tấm thẻ đảng Lao Động, mà cả sinh mạng. Đó là chuyện sống hay chết." Tom Geoghengan

Đọc tiếp ...

Trên quảng trường mênh mông, các cháu khóc bù lu bù loa, máy quay truyền hình càng đẩy vào cận, các cháu mắt ngó về máy quay để tự điều chỉnh bố cục, rồi gào lên, nước mắt dàn dụa. Lại có mấy bà tìm đâu ra cái thang máy mà Chủ tịch IL có một lần từng đi, lại nhìn thấy mấy tay nhà báo đang đứng đấy, thế là một hai ba, các bà lao chồm tới thành thang máy, vịn lấy, khóc, đập đầu vào đấy mà khóc, vừa khóc vừa được thang máy đưa lên rồi lại đưa xuống, thay cần trục máy quay, khuôn hình hơi bị ngọt. Rồi lại thấy mấy bà già, đang nhìn trước ngó sau không biết tìm ai, bỗng dưng thấy máy quay lia tới, thế là đập đầu xuống đất khóc. (NQV)

Đọc tiếp ...

LAN MAN VỚI NGÀI KIM IL NAM.

 

                                          Chùa Phật ở Triều Tiên

 

 

                     Ông Kim il Nam chủ tịch Quốc hội bắc Triều Tiên

 

 

Sau ngày nhà lãnh đạo bắc Triều Tiên  Kim jong il  đột tử, báo chí lề phải lề trái xứ ta đưa nhiều tin bài về ông như một nhân vật quá nhiều bí ẩn trong một đất nước bế quan tỏa cảng vào loại số một thế giới. Đọc bài nào nói về ông chủ tịch cũng thấy lạ, đến ông chủ tịch Quốc hội bắc Triều Kim il Nam cũng lạ nốt. Trong bài "Vài hồi tưởng về Triều Tiên hồi trẻ của bố tôi ở Liên Xô" (1) ông Nguyễn Hưng Đạt viết: "Cách đây mấy năm, ông Chủ tịch Quốc hội Triều tiên Kim Il Nam có đến xin Việt nam viện trợ cho họ ba, bốn trăm ngàn tấn gạo. Việt nam hứa viện trợ, song không được nhiều, vì mới bị lũ lụt tại rất nhiều nơi, mất mùa và chính dân ở đó cũng đói. Ông Chủ tịch đó đến Bắc Giang thăm lại nơi chôn các liệt sỹ Triều tiên. Ông ta nói: "Triều tiên đã viện trợ cho Việt Nam cái vô giá nhất là con người, họ nằm đây. Còn Việt nam tại sao lại tiếc cái có giá nhất định là gạo."  Ơ hay! Một nửa dân số nước ông là Phật tử mà ông không biết tí gì về hạnh bố thí sao.  Hay là ông quá tin vào ông Các Mác cho rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân nên không thèm ngó tới ? 

 

* *

    Mà ông Kim il Nam à, thuốc phiện dùng đúng chỗ, đúng liều lượng là thần dược cứu nhân độ thế đấy. Trong mục "Diệu hạnh vô trụ" của kinh Kim cang đức Phật dạy: "Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng".  Nghĩa là việc bố thí không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí. Không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, có nghĩa là khi thực hành hạnh bố thí,  không nên thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp, được cám ơn, được tán thán, không nên thấy có người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể chuyện ơn nghĩa, không nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố thí đó, để khoe khoang, và cũng không nên thấy có vật gì, điều gì đã được đem cho, để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, muốn đi đòi lại! …

* *

Ông Kim à, tui không là Phật tử, không quảng bá cho đạo Phật nhưng cái lý thuyết quốc tế vô sản như ông đã hành xử kém xa hạnh bố thí của Phật Thích ca. Đến như đạo Chúa ngập tràn tình thương, nhưng là một thứ tình thương cho đi để nhận lại. Chúa Ki Tô nói: " Khi ngươi bố thí, đừng để tay mặt biết việc làm của tay trái, hãy bố thí một cách thầm kín". Thoạt nghe như là mật hạnh của đạo Phật, nhưng rồi ngài lại thêm: "Cha chúng ta thấy rõ tất cả nỗi thầm kín ấy sẽ thưởng ngươi". Xét theo quan điểm của Thiền thì "ông chưa là người của bản môn". Hể hành động còn kèm theo một tâm niệm thì chưa phải là "hành động không công đức", vì còn đầy tì vết và bóng tối. Một chiếc áo đẹp khi nó không lộ đường may trong cũng như ngoài, không ai có thể nói được nó khởi may từ đâu. Cũng vậy, trong Thiền không dung thứ sự lưu lại dấu vết nào của sự bố thí, càng không nghỉ đến được khen thưởng, cho dù người khen thưởng là Chúa. Lý tưởng Thiền ví như "gió muốn thổi đâu thì thổi, ví như âm thanh ta nghe được, nhưng không biết được từ đâu đến, và sẽ đi về đâu"… 

     Mấy liệt sỹ bắc Triều yên nghĩ ở Bắc Giang nghe ông nói thế chắc buồn lắm. Họ hy sinh vì tinh thần cao cả của hạnh bố thí như đức Phật đã dạy chứ đâu phải để có ngày ông trách "Việt nam tại sao lại tiếc cái có giá nhất định là gạo" trong khi Việt Nam đang lũ lụt đói kém.

 

--------------------------------------------------

(1) Theo blog nhà văn Nguyễn Quang Lập

 

Đọc tiếp ...

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

ĐI ĐI ÔNG

 

        Nhại bài thơ "Đi đi em " của Tố Hữu

        Rứa là hết ! Chiều ni ông đi mãi
        Còn mong chi ngày trở lại, ông ơi !
        Quên làm sao, ông hỡi, lúc chia phôi
        Bởi chung cảnh, dân chúng mình nghẹn nói

        Cha đi trước bao tượng đài cao vói
        Con đi sau rồi tượng cũng ê hề
        Vẫn chưa thôi lời day dứt nặng nề
        Hàng giây tiếng rủa nguyền trên miệng thế !

        Biết không ông, nỗi lòng Un khi đó ?
        Nó tơi bời, đau đớn lắm, ông ơi !
        Bàn chân ông còn luyến tiếc không rời 
        Bởi chưa kịp bàn giao Un Cu Nhóc .

        Những đêm tối, ông viết bài Un học
        Cho Un con bỗng chốc hóa thiên tài
        Nơi biết bao bổng lộc với lâu đài
        Ông đã trút vào lòng Un tất cả !

        Un ngoái cổ nhìn ông, Un chỉ trả
        Thầm cho nhau đôi mắt ướt ly sầu !
        Biết làm sao, ông hỡi, nói cùng nhau ?
        Tiếng chửi mắng vẫn phun hoài, nhục nhã !

                    (Blog Quê Choa)

 

Đọc tiếp ...

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

CHUYỆN ĐỜI XƯA

 

 

Liễu Hạ Huệ


 

Dương Quý Phi


 

Trác Văn Quân

 

(Hai người đẹp trong mọi thời đại ở trên không can dự vào chuyện Liễu Hạ Huệ)

 

 

Cái cô Trang nào đó (Thanh niên onlione) chê đàn ông Việt Nam đủ thứ thậm tệ, nào không thông minh, không lãng mạn, không biết chiều phụ nữ …nghĩa là một thứ xăng pha nhớt. Cứ  tưởng tượng cô ấy sống vào thời Đông Chu Liệt quốc, một hôm suýt chết cóng vì rét, may được ông Liễu Hạ Huệ cứu sống, không hiểu sau đó cô ta khen Liễu tiên sinh là đại trượng phu hay chê là cù lần, là lại cái… hehehe !!

 

 

Vậy Liễu Hạ Huệ là ai? 

 

Liễu Hạ Huệ: tên là Triển Hoạch , tự là Quí , người đất Liễu Hạ , nước Lỗ, thời Đông Châu Liệt Quốc. Làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Tên thụy của ông là Huệ . Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa (Thánh chi hòa). Nhiều người xem ông là Thánh Nhân của Nho Giáo, tức tương đương với Khổng Tử, và cao quí hơn Mạnh Tử. Truyền thuyết ghi lại, một hôm ông dừng chân nghỉ qua đêm trước cổng thành, có một phụ nữ cũng đến trú chân. Trời lạnh người phụ nữ bị cảm lạnh rét cóng, Liễu Hạ Huệ liền cởi áo choàng , khoác lên người nàng rồi ôm vào lòng để nàng hết lạnh, mà không có một chút tà tâm.

    Về câu chuyện này, ông Ưu Đàm Hoa trong "Võ Lâm U Linh Ký" cho rằng Liễu Hạ Huệ giữ được tâm chính vì ông và cô gái kia đang mặc nhiều áo quần, còn nếu cả hai đều khỏa thân thì chắc gì danh tiết được bảo toàn. Lại có ông Lê Chí tán thêm, may mà chỗ Liễu đại nhân ôm người đẹp đông người, ngài có muốn hành sự cũng không làm gì được.

    Cô Trang à, cô có lời bình gì không, và các bạn thân mến, các bạn phán vài vài lời cho thêm phần vui vẻ… hihihi  

Đọc tiếp ...

Những tưởng nỗi lo ngại ở hai từ "mãn dục" chỉ xuất hiện ở giới chị em khi đã bước vào tuổi trung niên, nhưng trong vòng 5 năm trở lại đây, lượng bệnh nhân gặp phải nỗi buồn khó nói này lại rơi vào phái mạnh ngày càng nhiều. Tỉ lệ thống kê từ những bệnh viện tại các khoa Nam học khiến người ta giật mình: gần 80% bệnh nhân mắc bệnh tìm tới khoa Nam học nhờ tư vấn và tìm giải pháp hỗ trợ là những ông chủ doanh nghiệp và phần lớn thuộc tầng lớp lao động trí óc. (CAND online)

Đọc tiếp ...

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

TẢN MẠN TRẦU CAU

                                       Trầu cau

 

                                                     Trầu cau

                                             

                                                      Bu tui đây !          

 

 

Lâu nay bu cố công tìm mà chưa thấy nhà nghiên cứu nào khẳng định một cách rốt ráo rằng người Việt ta sử dụng trầu cau từ lúc nào. Riêng  việc dùng rượu thì có người đã bàn tới. Ông Thái Lương trong "Văn hóa rượu"(1) cho rằng thoạt đầu người vùng sông Nhĩ Lô (tức sông Nin ở châu Phi) tình cờ dự trử quả nho lâu ngày ngửi thấy mùi thơm nồng, người lâng lâng, rồi đặt tên cho cái lâng lâng ấy là Spirit nghĩa là linh hồn. Ngày nay thuật ngữ đó là rượu. Nhưng đó là chuyện rượu bên Phi châu. Còn người Việt ta biết ăn trầu vào lúc nào?  Chắc là từ lâu, lâu… lắm! Có lẽ phải sau câu chuyện lâm ly mà sách vở có ghi lại. Rằng, thời xửa thời xưa, có hai anh em nhà nọ giống nhau như hai giọt nước. Cha mẹ nghèo lại mất sớm nên từ nhỏ hai người đã tự làm lụng để sống. Anh em hòa thuận thương yêu nhau, chưa hề có chuyện gì xích mích. Thế rồi người anh lấy vợ, cô gái xinh nhất vùng. Nàng về nhà chồng mà đôi khi cứ ngẩn ngơ không biết hai người con trai kia, ai mới là chồng mình. Một hôm người anh đi làm đồng về thấy vợ chuyện trò cùng chú em với ánh mắt trìu mến, thế là chàng giận hai ngươi và bỏ đi vào rừng. Chàng đi mãi, đi mãi cho đến khi hóa thành đá. Người em theo dấu chân đi tìm anh, biết anh đã hóa đá thì buồn rầu hóa thành cây cau mọc thẳng lên trời bên cạnh tảng đá . Người vợ gạt nước mắt đi tìm chồng và em. Đến khi biết chồng hóa đá, em hóa cây thì nàng gục xuống hóa thành cây trầu, mọc trùm lên tảng đá và xoắn xuýt theo thân cau. Người trong vùng thấy chuyện lạ, họ nung đá thành vôi quyệt lên lá trầu, rồi đem hai thứ đó nhai với quả cau thì thấy người lâng lâng như đi trên mây, đôi môi lại thắm đỏ như màu hoa dâm bụt, hoa dong riềng ở các vùng quê. Hóa ra sự lâng lâng nào cũng ngang với linh hồn chứ chẳng riêng gì rượu. Văn hóa trầu cau là một phần hồn vía dân Việt từ ngàn xưa cho đến ngàn sau.      

*

*  *

        Có lẽ không có giống cây cỏ nào được các nhà thơ và ca dao tục ngữ nhắc đến trong tình yêu lứa đôi nhiều như trầu và cau. Nhà thơ Nguyễn Bính đa tình nhất nước, vẫn không nói thẳng anh nhớ em mà còn vòng vo  "Nhà em có một giàn trầu, nhà anh có một hàng cau liên phòng, thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào".  Màu xanh tươi lá trầu, màu trắng tinh khiết của vôi  nhìn mát mắt là thế nhưng nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại mượn nó để riết róng cảnh tỉnh những kẻ phụ tình "Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, này của Xuân Hương đã quệt rồi, có phải duyên nhau thì thắm lại, đừng xanh như lá bạc như vôi". Trầu, thuốc, và đôi mắt lá răm là những thứ làm người ta say tít mù.  Phan thị Thanh Nhàn phát hiện trong một buổi họp xóm ở nhà quê "Các cụ ông thì say thuốc, các cụ bà thì say trầu, còn con trai con gái , chỉ nhìn mà say nhau". Với dân gian "Miếng trầu là đầu câu chuyện", "Miếng trầu nên dâu nên rể" nên các thôn nữ bảo nhau "Mẹ em hằng vẫn khuyên răn, làm thân con gái chớ ăn trầu người". Ấy vậy mà vẫn có cô vượt rào, dám lên tiếng trước với anh chàng phong lưu "Ôi anh đi cái ô vàng, có trầu xin miếng hởi chàng đi ô". Lại có chàng trai đành thú thật "Thèm trầu mà chẳng dám xin, thương em mà chẳng dám nhìn mặt em".  Nhưng trầu cau không phải khi nào cũng là chứng nhân cho niềm vui viên mãn lứa đôi. Có khi người ta mời nhau miếng trầu trong nỗi đau chia ly vì duyên phận, vì lễ giáo cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy "Hai tay xách nước tưới trầu, trầu bao nhiêu lá dạ sầu bấy nhiêu". Ngọn trầu ấy được trao cho nhau trong nước mắt "Cách nhau một bức rào thưa, tay chùi nước mắt tay đưa miếng trầu".  Văn hóa Trầu cau người Việt xem thế mà đã đi vào sách Biểu tượng văn hóa thế giới của hai tác giả người Pháp là Jean Chevalier và Alain Ghee Brat (2) Các ông viết "…Ở Việt Nam, thời gian nhai giập miếng trầu cũng là cách tính thời gian theo kinh nghiệm (ba đến bốn phút)". Tưởng là phát minh gì lớn, hóa ra hai ông học nhà thơ Nguyễn Bính đã nói trong bài thơ "Chờ nhau" viết từ năm 1937. Người con gái nhận được tín hiệu rủ rê của  người thương lấp ló đâu ngoài vườn, nàng thầm thì đủ cho chàng nghe "Xóm làng đã đỏ đèn đâu, chờ em chừng giập miếng giầu em sang". Chàng trai dẫu sốt ruột nhưng ngoan ngoãn nghe theo vì không thấy chàng phản ứng gì cả. Có lẽ "chừng giập miếng giầu" là đơn vị thời gian mà chỉ có chàng và nàng cảm nhận được, chịu đựng được để sau đó nhìn thấy nhau cho thỏa lòng mong nhớ. Hai ông Tây bảo "chừng giập miếng giầu"  từ "ba đến bốn phút" chắc gì đã đúng. Vì nhai trầu khoan thai đủng đỉnh khác với nhai trầu trong tâm trạng rối bời, vội vả. "Chừng giập miếng giầu" của Nguyễn Bính trong trường hơp này là hàm cuả biến số tâm trạng mà ta chỉ cảm nhận hơn là để lý giải. Tính chất nhân văn và nét đẹp văn hóa trầu cau như chính ngọn trầu quả và cau vậy, xanh tươi, tròn đầy, và tàng chứa  bao nhiêu cung bậc tình cảm của người Việt ta.  

------------------

(1) Văn hóa rượu, chủ biên Thái Lương nxb Văn hóa Thông tin 1999

(2) Từ điển Biểu tượng Văn hóa Thế giới của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant (phó chủ tịch nước Nguyễn thị Bình viết lời giới thiệu) nxb Đà Nẵng 1997

Đọc tiếp ...

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

NẾU BẠN CÓ BỘ KINH THI CỦA NXB VĂN HỌC QUÝ I - NĂM 2004

                   Kinh Thi tập I. NXBVH quý I năm 2004

 

                                     Trang 94 quyển thượng tập I

 

 

 

 

Bu sang nhà anh Hoàng Kim  nghe cô giáo Cao Nguyên thỏ thẻ:

 

"Thầy ơi, còn một bài PHIẾU HỮU MAI, CNB post từ lúc bên 360 tới bên này mà hổng có ai ghé đọc hết....."

 

 

Mới nghe thấy chữ PHIẾU trong PHIẾU HỮU MAI Bu tui đã thấy ngờ ngợ, vì trong tập Kinh Thi (quyển thượng của nhà xuất bản Văn học ấn hành quý 1 năm 2004) do ông Tạ Quang Phát dịch, ông Nguyễn Xuân Tảo (vốn là biên tập viên văn học cổ điển Trung Quốc … hiệu đính (1)) không viết "Phiếu hữu mai" mà viết "Biểu hữu mai". Tại các trang 94, 95,96  của sách trên in 3 chương "Biểu hữu mai". Bu chỉ chép lại đây nguyên văn cả chữ quốc ngữ lẫn chữ vuông chương I để các bạn tham  khảo .

 

CHƯƠNG I

 

 標 有 梅

 

 求 我 庶 士

 迨 其 吉 兮


Biểu hữu mai

 

Biểu hữu mai

Kỳ thực thất hề

Cầu ngã thứ sĩ

Đãi kỳ cát hề


Dịch nghĩa

 

Quả mai đã rụng

Ở trên cây, quả mai mười phần chỉ còn lại có bảy

Kẻ sĩ tìm đến chỗ em để cưới

Hãy kịp ngày tốt này.


Dịch thơ

 

Hôm nay mai đã rụng rồi,

Giảm đi còn bảy phần mười trên cây.

Sĩ phu tìm đến em đây.

Kịp trong ngày tốt lo ngay cho mà.


Chú giải của Chu Hy (2)

Chương này thuộc phú.  biểu rớt, rụng     mai, tên cây mai, hoa trắng, quả như quả hạnh mà chua.   thứ chúng, các vị.     đãi, kịp.    cát, cát nhật ngày tốt .

    Nước phương nam (3) chịu sự giáo hóa của Văn vương. Con gái chỉ biết lấy chữ trinh tiết trung tín để giữ mình, lo cho mình gả chồng không kịp thời  mà phải chịu nhục vì kẻ ngang tàng vô lễ. Cho nên  nói rằng : Quả mai đã rụng,  còn lại trên cây đã ít rồi thì biết rằng mùa mai đã qua và đã quá muộn vậy. Hỏi kẻ sĩ tìm đến để cưới em có lo kịp ngày tốt lành mà đến hay không.

***

Về ý nghĩa nhân văn do Chu Hy chú giải bu tui tâm phục khẩu phục, không còn gì phải bàn. Nhưng do bất cẩn mà các nhà làm sách xuyên tạc lời chú của Chu Hy. Các vị viết ra chữ "tiêu" lại phiên âm là "biểu", rồi gán cho biểu là rớt, rụng. Một sự lạ nữa là tựa đề bài thơ bằng quốc ngữ viết "biểu hữu mai", nhưng chữ Hán viết là "tiêu hữu mai"( ).Chữ tiêu (標, gồm bộ mộc   và chữ phiêu (4)) có nghĩa là ngọn cây, cái mũi nhọn, cớ sao các nhà làm sách chữ nghĩa đầy mình gọi là chữ biểu.  5 chữ  biểu của người Tàu dưới đây  không hề có nghĩa rụng, rơi:


(biểu) chia cho…

(biểu) trong từ biểu tử là con hát, gái điếm

(biểu) ở ngoài…  

(biểu) khăn quàng cổ…

(biểu) Đồng hồ đo thời gian…

 

Thực ra "biểu" và "tiêu" đều sai. Rớt, rụng,  phải là phiếu (搮, gồm bộ thủvà chữ phiêu 票). Từ điển Thiều Chữu giải thích chữ phiếu (搮) như sau:"Rụng, trong Kinh Thi có thơ Phiếu mai (梅) nói về sự hôn nhân phải cập thời. Nay ta gọi con gái sắp lấy chồng là phiếu mai vì cớ đó".  Một bài thơ chỉ có 16 chữ mà Nhà xuất bản Văn học sai quá nhiều. Tên bài thơ là "Phiếu hữu mai" thì viết "biểu hữu mai", nhưng chữ "biểu" lại phiên âm ra "tiêu"  thành "tiêu hữu mai". In xong sách các học giả chữ nghĩa đầy mình không đọc lại để in thêm phần đính chính xin lỗi người đọc. Cô giáo Cao Nguyên hơi kém vui khi thấy không ai ghé đọc bài thơ Phiếu hữu mai (有 梅) bên anh Hoàng Kim làm bu tui nghỉ bụng, em nào quá kén cá chọn canh thì hãy quan sát cây mai. Xuân sắc các nàng na ná như cây mai ra quả. Rụng ba còn bảy không sao, rụng bảy còn ba là có vấn đề, đến rụng chín còn một thì …thì…coi như rụng hết, không còn chi mà nói nữa, huhuhu!)

   

Các bạn đã đọc Kinh Thi, đặc biệt là người đẹp TTM uyên thâm Hán học có ý kiến gì khác chỉ giáo thêm cho Bu tui được sáng tỏ.  Đa tạ lắm thay.


------------------------------------------------------------


Chú thích của Bulukhin       

(1)  Trích lời Nhà xuất bản Văn học năm 2004

(2)  Chu Hy, một học giả nổi tiếng thời Thuần Hy, Nam Tống 1174-1190

(3)  Nước phương nam:  Bài thơ Phiếu hữu nam nằm trong phần THƠ CHU NAM . Chu là tên nước nhà Chu, nam là các nước chư hầu ở phương nam do Văn Vương trị vì

(4) Người Tàu có 7 chữ phiếu. Trong bài này dẫn ra hai chữ có liên quan :

- (phiếu) nghĩa là rơi, rụng…

- (có 3 cách đọc: Phiêu là nhẹ nhàng. Phiếu là chứng chỉ. Tiêu là lửa bay)

Đọc tiếp ...

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

NGƯỜI LÀO DỄ THƯƠNG LẮM

 

Tháp That Luông ở thủ đô Viêng Chăn


Bu với nhà sư Lào


Đấy là nhận xét của bà chủ nhà hàng Đồng Xanh ở thủ đô Viêng Chăn. Bà tên là Kim Thanh người Sài Gòn, đã định cư ở Viêng Chăn  trên 20 năm, có quốc tịch Lào.  Hỏi tại sao bà không cho con về Sài Gòn học đại học mà lại học ở Viêng Chăn, bà bảo, về Sài Gòn bọn nhỏ dễ hư lắm. Học ở đây gần nhà với lại xã hội ít tệ nạn . Bà chỉ vào đám học trò đi  qua trước cửa nhà hàng nói tiếp, anh xem bọn trẻ đi học ngoan ngoản, không gây bậy, không nói tục, không đánh nhau. Người Lào từ bé chí lớn không nói to, không cãi lộn…Họ sùng đạo Phật, cả nước chưa tới 6 triệu dân mà có đến 1400 ngôi chùa, tính ra cứ hơn 4000 dân có một chùa. Trong nhà không dư dã gì nhưng họ sẵn lòng cúng dường chùa và  các nhà sư 

Nhà sư khất thực


Du khách tham gia bố thí thực phẩm
 
 
Chờ các nhà sư đến nhận phần 

 

 Sư hành lễ


Chùa đầu tiên bu đến thăm có tên Xi Mường, đến để xem hiện tượng lạ. Một đôi chim hạc cứ chiều chiều bay về đậu trên mỏm núi đá trong khuôn viên . Một con đậu ở phía đông, một con đậu ở phía tây, ngủ lại qua đêm,  sáng hôm sau cả đôi lại bay đi kiếm ăn tận đẩu đâu không ai biết.

 Chùa Xi Mường


Chim hạc ở chùa Xi Mường (phía đông mõm đá)


Chim hạc ở chùa Xi Mường (phía tây mỏm đá)


Trong nội điện chùa Xi Mường bu gặp một cô gái Lào đang sắp đĩa hoa qủa cúng Phật. Nàng quỳ, đầu cúi sát nền nhà vô cùng thành kính. Khi biết có người đang quan sát mình, nàng ngoái nhìn khách với nụ cười rất tươi. (Đúng là người Lào dể thương  thiệt, hehehe..)


Sửa lễ cúng Phật

Quỳ thành kính


Tươi cười tiếp khách


Bu đánh liều hỏi, Nọong hủ pha xa Việt bò (Em có biết nói tiếng Việt không) nàng trả lời bằng tiếng Việt lơ lớ, em nói được ít thôi.  Nghe bảo chùa Xi Mường này thiêng lắm ? Thiêng nhiều nhiều anh à. Em đang cầu Phật điều gì đấy?  Ồ cầu nhiều nhiều. Nói xong cô gái có vẻ ngượng ngùng, như sợ khách hỏi thêm cái điều nàng đang cầu xin.  Sau đó mới biết ở nội điện chùa Xi Mường có một phòng chuyên cho chị em hiếm muộn đến cầu được làm mẹ.  Bu thầm niệm Nam mô bổn sư Thích Ca mâu ni Phật, mong ngài giúp cô gái Lào xinh tươi nọ sớm  toại nguyện.

Ở Viêng Chăn không thấy nhà cao ngất ngưỡng như Sài Gòn và Hà Nội, có lẽ do người Lào không ưa cái gì ngổ ngáo, thái quá. Công trình Phật giáo đồ sộ nhất thủ đô là tháp Thạt Luông và một số chùa gần khu vực tháp.

 

That Luông


Kiến trúc ở quảng trường That Luông



Vườn Phật ở Viêng Chăn (4 ảnh trên)


Du khách ở vườn Phật


Người bán vé vào vườn Phật


Đại lộ Lan Xang to đẹp nhất Viêng Chăn.  ở đây có  có đài chiến sĩ vô danh còn gọi là Khải Hoàn môn rất hoành tráng. Trong 30 mét chiều của cao lòng tháp có rất nhiều tầng bán bách hóa và hàng lưu niệm

Khải hoàn môn


Các kiến trúc gần Khải hoàn môn (3 ảnh trên)


Những ngày ở Viêng Chăn , buồn chân, bu la cà sang Noọng Khai bên Thái Lan, thời gian làm thủ tục nhập cảnh ở đây quá lâu, đứng ê chân, phải lấy máy ra chụp vu vơ cho đỡ sốt ruột 

 

 Xếp hàng làm thủ tục vào Noọng Khai (Thái Lan)


Qua cầu Hữu nghị Lào Thái (cờ Thái phía trước)


Phố chợ Noọng Khai


Ngắm em xem chợ Noọng Khai


Thú vị  nhất là bu được trở lại cầu Nậm Nhôm ở bản PhaTha tỉnh Khăm Muộn.  Cách nay 20 năm bu đã đưa quân sang Khảo sát Thiết kế cầu này. Cầu bê tông cốt thép ứng suất trước không lớn lắm, thế mà đơn vị bu phải nằm lại đây cả tháng trời vì địa tầng đáy sông quá phức tạp.  Cứ khoan xuống vài ba thước là gặp đá, không phải đá liền khối mà đá mồ côi, và vô số các hang cát tơ. Phải khoan theo kiểu xăm bàn cờ mới vẽ được kết cấu địa tầng để đặt móng mố, trụ.

 Cầu Nậm Nhôm

Công ty 479 Việt Nam

Cầu Nậm Nhôm bu thiết kế cách nay 20 năm

Ở bản Pha Tha Khăm Nuộn


Sông Nậm Nhôm


Xóm nhà bờ tây sông Nậm Nhôm, nơi cô Bua Khăm ở cách nay 20 năm


Bu và đám kỹ sư, công nhân ở nhờ nhà dân phía bờ đông. Quản lí bếp ăn là anh chàng Hiếu điển trai, vui tính, có biết vỏ vẻ dăm câu tiếng Lào. Do việc cậu ta thường vào bản mua thực phẩm, nên quen biết khá nhiều người Lào, trong đó có cô Bua Khăm chừng 18 tuổi, người cao ráo, trắng trẻo tóc tết đuôi sam, đôi mắt đen láy nhưng sao cứ phảng phất một nỗi buồn xa vắng. Một buổi sáng tinh mơ, sương mù trắng trời, bu ra sông đánh răng, rửa mặt, bổng thấy phía trước lờ mờ một bóng người rẽ nước đi từ bờ phía tây sang, một cô gái hai tay vừa từ từ hạ váy xuống, vừa tiến vào bờ, tay phải cô cầm một bó hoa rừng, không biết là hoa gì. Lạ, người Lào ở bản Pha Tha đến rau thơm, hành, tỏi, họ cũng trồng trong vỏ bom bi treo trên nhà sàn để hái cho nhanh đỡ phải xuống đất, thì mấy ai trồng hoa. Lúc ấy Lào đang là mùa khô, chắc cô Bua Khăm phải vào tận rừng xa có suối chảy mới tìm được loại hoa hiếm hoi này. Trưa hôm ấy bu hỏi Hiếu, em Bua Khăm có việc gì mà sang gặp chú mày sớm thế, dạ cô ấy sang mừng sinh nhật em. Tôi  thăm dò, con gái Lào hay không, cu cậu chỉ cười cười. Người Lào thật thà như đếm, chú hứa với họ điều gì thì cố mà thực hiện cho được nghe chưa, dạ, em biết. Những đêm trăng sáng, chàng trai Việt sóng đôi  cô gái Lào đi dạo bên bờ sông Nậm Nhôm trông đến là dễ thương…Sau đó Hiếu đi lao động bên Hàn quốc, Không biết có liên lạc gì với người đẹp Bua Khăm năm xưa nữa không.

 Trưa ở bản Pha Tha cảnh vật sao mà đìu hiu. Mấy ngôi nhà phía bờ tây tịnh không một bóng người. Chẳng gặp ai để hỏi, ừ nhỉ, mà có gặp thì Lào Việt đâu có biết tiếng nhau! Nhắc chuyện xưa cách nay 20 năm bu chưa hết tâm trạng ái ngại. Sinh nhật quân mình mà cả đơn vị không ai hay biết, một cô gái Lào lại biết rõ và mang hoa sang tặng từ tinh mơ mờ đất. Bà chủ nhà hàng Đồng Xanh nói đúng, người Lào tình nghĩa và dễ thương thiệt.          

Đọc tiếp ...

Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011

TRỞ LẠI ĐƯỜNG 12, TRỞ LẠI CỔNG TRỜI....

 

 

Cổng Trời trên QL 12

 

Khu kinh tế Cha Lo

 

Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo

 

 

Hồi còn làm anh "lính" trên mặt trận cầu đường, bu tui được tiếng là gan dạ. Mũi tên hòn đạn tránh bu chứ bu không tránh nó, đúng hơn là chẳng biết đâu mà tránh. Bom đánh tắc đường, cấp trên chỉ thị "phải thông xe ngay" thì có chết cũng phải đưa quân ra hiện trường tính toán, san lấp. Không san lấp kịp thì thiết kế đường tránh để thông xe. Bởi những ngày đáng nhớ đó mà bu có nhiều dịp đi mòn đường chết cỏ trên QL 12 (nối huyện miền núi Tuyên Hóa Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn của nước Lào). Có dịp qua lại không biết bao nhiều lần dưới Cổng Trời cũng trên con đường lịch sử đó. Thấm thoắt đã mấy mươi năm…. Ở miết dưới xuôi đôi khi cồn cào nhớ đường 12, nhớ cầu Khe Ve, nhớ Cổng Trời, nhớ cái màu xanh rêu đá, nhớ tiếng nỉ non bất tận của dòng suối Cha Lo bên đèo Mụ Giạ… Thế rồi cứ như nằm mơ, cuối tháng 9- 2011, ông bạn hàng xóm sang nhà bu bảo: "Em có xe đi công tác bên thủ đô Viêng Chăn, mời bác đi chơi với bọn em một chuyến, chi phí bọn em lo, bác chỉ việc nói chuyện Phật giáo Tiểu thừa của nước Lào cho bọn em nghe là được"…

     Trưa ngày 29.9 đoàn bu đã đến ngả ba Khe Ve (xã Hóa Hợp huyện Minh Hóa). Nếu đi thẳng là đường HCM ra bắc, rẽ trái theo hướng tây là QL12 sang Lào.



 

 Ngả ba Khe Ve

(Bên phải là đường HCM ra bắc, theo hướng nhìn là QL12 sang Lào)

 

 

Quá ngả ba (theo QL12) chừng 1km là cầu Khe Ve, trước đây do người Pháp xây dựng. Sau 1965 bom Mỹ phá tan tành, những thanh cầu bị bom cắt ngang cong lại như vô vàn cái dấu hỏi lơ lửng giữa không trung. Các bạnTNXP trả lời bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu, bu tui trả lời bằng công việc "Khảo sát thiết kế". Trong kí ức bu còn ghi lại mấy dòng về Khe Ve " Chiều Khe Ve về từ cổ tích. Núi hoang sơ và rừng hoang sơ. Suối ngân mãi giọng buồn rả rích. Gió đìu hiu lau trắng phất phơ. Trụ cầu xưa một dấu chấm than. Đổ bóng nặng nghiêng vào quá khứ. Thanh cầu gảy cong cong rỉ ứ. Vạch ngang trời dấu hỏi nôn nao. Chàng khảo sát đẽo cọc cắm tim. Tiếng búa vọng ngỡ là tiếng nói. Câu hỏi cứ xoáy lòng bối rối. Giữa thì thầm nhạc suối Khe Ve"


 Cầu Khe Ve

(Cầu dàn thép bên phải đi theo tuyến cũ của Pháp, bên trái là cầu Bê tông hiện nay)

 


Cổng Trời không do ai dựng nên mà tạo hóa sinh ra thế. Hai khối đá tựa đầu vào nhau như hai hòn trống mái, tạo thành một không gian ấm cúng, che gió mưa và đạn bom cho con người. Trên tấm bia bên trái Cổng Trời có mấy dòng chữ sau:


DI  TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA ĐƯỜNG  HỒ CHÍ MINH

ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN TỪ 1965 - 1975

CỔNG TRỜI.

* Quốc lộ 12 nối đường Hồ Chí Minh Đông -Tây Trường Sơn

* Cụm trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá ngăn chặn ác liệt từ 1965- 1973: Cổng Trời, Mụ Giạ, Bãi Dinh, La Trọng.

* Trận địa pháo phòng không nổi tiếng của tiểu đoàn Nguyễn Viết Xuân anh hùng

* Chỉ huy sở Binh Trạm 12


Bia ở Cổng Trời


 

Bu ở Cổng Trời


 

Bên kia Cổng Trời ( phía Lào) chẳng có Ngọc Hoàng và Tiên Nữ như nhà thơ Tản Đà đã từng gánh thơ lên bán kể lại mà là Đèo Mụ Giạ và suối Cha Lo. Người Quảng Bình có câu "Cha Lo ruột đau chín khúc, Mụ Giạ hai hàng lệ chảy quanh".  Nghe kể thời xưa dân Quảng Bình, Hà Tĩnh  đến mùa giáp hạt đói kém bồng bế nhau sang Lào kiếm sống.  Rất nhiều ông bố bà mẹ cùng con thơ bỏ xác nơi đây. Ở lưng chừng đèo phía Lào trước đây có một gò đá lớn, chuyện kể:  có một bà tên Giạ chết ở đó, người qua lại thương tình bỏ vào chỗ bà nằm một viên đá, lâu dần thành gò cao. Sau này bom đạn tàn phá và phía Lào mở rộng đường nên mộ đá ấy không còn nữa.Chữ mụ ở đây như chữ mụ khi nói chùa Thiên Mụ ở Huế. Mụ là tiếng miền trung, có nghĩa như chữ bà trong tiếng phổ thông vậy.


 

 

Đèo Mụ Giạ

 

Suối Cha Lo (Lũ về)

 

Suối Cha Lo

 


Một kỉ niệm nhỏ ở Cổng Trời, nghĩ lại thấy vui vui. Dạo ấy bom đạn là thế mà đám TNXP trong các nhà hầm thỉnh thoảng vẫn tổ chức liên hoan văn nghệ "Tiếng hát át tiếng bom" và thi viết báo tường. Bu hứng chí dự thi với bài thơ "Cổng Trời", lâu ngày quên gần hết, chỉ nhớ có mấy câu "…Bên kia là Thượng Đế???, Cha Lo đau chín chiều. Mụ Giạ buồn nhân thế. Dưới nấm mồ xanh rêu. Đường nhà trời thăm thẳm. Mảnh bom vằm thân cây. Cô gái Khùa đen xạm. Gùi nghiêng trên vai gầy."  Bài thơ không có giải thì chớ, lại "được" đồng chí bí thư chi bộ Đảng " thân mật" nhắc nhỡ: "Bên kia Cổng Trời là đường vào Nam đánh Mỹ, con đường chiến thắng của dân tộc Việt Nam, một dân tộc được thế giới tôn vinh là lương tâm của thời đại. Sao đồng chí lại có cái nhìn ảm đạm bi quan như vậy"…Hehehe

    Trên đỉnh đèo Mụ Giạ là cột mốc biên giới số 528 được xây dựng từ năm 2008



Bu bên cột mốc biên giới 528 xây dựng năm 2008

(Sau lưng bu là Việt Nam)



Từ cột mốc đi về phía Khăm Muộn chừng 1 cây số là đồn biên phòng Lào 



 

Trạm gác phía Lào


 Đồn biên phòng Khăm Muộn, Lào


(Còn tiếp)  

Đọc tiếp ...