Thứ Hai, 27 tháng 7, 2009

TẢN MẠN NHẬT LỆ.

 

                                      DSCN1654

                                                      Bình minh Nhật Lệ

 

 

                                       DSCN0976

                                                         Cầu Nhật Lệ

 

                                         Picture 020

 

                             Khách sạn SÀI GÒN - QUẢNG BÌNH trong sương sớm

 

                               POST TẶNG BẠN NẶNG LÒNG VỚI NHẬT LỆ

                         CHO DÙ CHƯA MỘT LẦN NHÌN THẤY DÒNG SÔNG

 

 

Mươi lăm năn trở lại đây một số người viết vể Quảng Bình cho ra đời khá nhiều sách địa chí làng xã, di tích và danh thắng. Thống kê sơ sơ đã có gần 20 quyển. Chẳng hạn "Địa chí Bảo Ninh", "Địa chí làng Thuận Bài", "Địa chí xã Thanh Trạch" của Nguyễn Tú. "xứ Ròn - Di Luân  thời gian và lịch sử" của Thái Vũ và Trần Đình Hiếu...Xa hơn nữa là "Những bài học lịch sử Quảng Bình 1937" của Lương Duy Thứ. "Địa lý lịch sử Quảng Bình - 1902" của Léopold Cadiere. "Ô Châu cận lục -1553" của Dương Văn An...Nhưng trong ngần ấy sách (kể cả những quyển chưa liệt kê ra ) Không thấy có tác giả nào chuyên tâm nghiên cứu các con sông và xuất xứ tên gọi của nó như là một đối tượng của chuyên ngành Địa-Văn hoá.

      Tôi làm nghề bắc cầu qua sông, đã nhiều lần ngụp lặn trong cái đẹp mê hồn của những Kiến Giang, Đại Giang, Linh Giang,  Nhật Lệ...nhưng như một kẻ phụ tình, không hiểu biết gì những cái tên lấp lánh trong kí ức suốt mấy mươi năm. Mãi đến gần đây, mới biết được sông Nhật Lệ từng có tên Đại Uyên và sông Ròn từng có tên Đồ Lê. Không hiểu Đại Uyên Và Đồ Lê đã phải là tên "quai nôi" của hai con sông này chưa? Chỉ biết là hai cái tên cổ ấy được ông Lê Đại Nguyên sống ở triều Lương Võ Đế (505-5430) ghi trong sách "Thuỷ kinh chú" (1). Thực ra ông Đại Nguyên chỉ làm cái việc chú giải bộ sách "Thuỷ Kinh" từ thời nhà Hán (111 trước CN đến 43 sau CN) . Vào thời này người Hán đã "Diệt được Nam Việt lập thành bộ Giao Chỉ - cầm đầu là một viên Thứ sử, đóng đô ở Mê Linh, Yên Lãng - Vĩnh Phúc" (2). Trong bộ Thuỷ kinh, người Hán đã ghi chép rất tường tận về sông ngòi ở chính quốc cũng như ở các vùng đất mà họ thôn tính được. Vậy hai tên Đại Uyên và Đồ Lê hẳn phải được chép từ bản gốc thời nhà Hán cách nay ngót 2000 năm.

      Rõ ràng tên gọi Nhật Lệ xuất hiện sau sách "Thuỷ kinh chú" của Lương Võ Đế, nhưng cụ thể là vào ngày tháng năm nào thì chỉ có các bậc đại thức giả mới trả lời được. May thay, kẻ thiển học này dò ngược lịch sử và tìm được tự dạng hai chữ Nhật Lệ trong bộ sử cổ nhất của nước ta viết bằng chữ Hán là "Đại Việt sử ký toàn thư" do sử gia Lê Văn Hưu viết xong từ năm 1272 cuối đời Trần Thánh Tông. Ở mục Bản kỷ toàn thư quyển III trang 47, tờ 37a-b, sử quan Lê Văn Hưu viết: 秋 七 月 占 成 國 人 具 般 等 逃 歸 其 國 至 日 麗 寨 人 執 送 京 師 (thu thất nguyệt Chiêm Thành quốc nhân Cụ Bàn đẳng đào quy kỳ quốc chí Nhật Lệ trại nhân chấp tống kinh sư) nghĩa là :"Mùa thu tháng bảy, người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến trại Nhật Lệ bị người trại ấy bắt được giải về Kinh sư" (3). Trích dẫn câu trên là một công đôi việc: Khẳng định được tự dạng chữ Lệ ( 麗 ) trong rất nhiều chữ Lệ của người Hán, có nghĩa là đẹp đẽ, rực rỡ. Lại tính gần đúng, cũng con sông ấy được mang tên Đại Uyên  từ thời Hán (111- 43) đến sau thời Lương Võ Đế (543 - ? ) khoảng 1200 năm. Lại mang tên Nhật Lệ từ thời Lê Văn Hưu đến nay là 738 năm. Thực ra còn lâu hơn thế, vì khi sử quan Lê Văn Hưu đặt bút viết sách thì hẳn là tên Nhật Lệ đã có trước đó rồi.

      Tôi vẫn nghĩ một người không thông thạo Hán học cho lắm cũng trả lời ngay được Hồng Hà là sông đỏ, Hương Giang là sông thơm. Nhưng hỏi Nhật Lệ là gì hẳn anh ta không trả lời chóng vánh được. Lại nữa, Nhật Lệ là  từ Hán Việt nhưng theo tôi không nhất thiết do người Hán đặt ra. Mà có thể họ đọc "trại" tên (gì đó) của tộc người Mã Lai - Đa Đảo đã từng sinh sống ở vùng này. Chả nhẽ  một tộc người đã từng làm nên văn hoá Sa Huỳnh, Bàu Tró, dựng nên quốc gia Lâm Ấp (năm 196) (4) lại không có tên  gì để gọi  con sông của xứ sở ? Nhà nghiên cứu Nguyễn Tú đã kê ra 33 từ Chăm có âm na ná tiếng Việt Quảng Bình. Chẳng hạn Thuk (lặng lẽ, bình yên) rất gần với tên chợ "Thùi" ở  làng Thạch Bàn huyện Lệ Thuỷ. Brong (lỗ rổng trong thân cây) mà người nuôi ong ở Quảng Bình vẫn gọi là "bọng ong" (5). Vậy Người Lâm Ấp trước đây gọi sông Nhật Lệ là gì?  Có lẽ phải chờ hậu thế kiến giải ! Ta hãy bằng lòng với từ Hán Việt  Nhật Lệ rất gợi cảm, đã từng làm nao lòng không biết bao văn nhân, thi sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ,  tự cổ chí kim.  Số người giải thích nghĩa hai chữ Nhật Lệ khá nhiều với nhiều cách khác nhau. Nhìn chung người ta tra nghĩa tự vị của từng chữ rồi ghép lại. Phải cái chữ Hán đồng âm dị nghĩa nên mỗi cách ghép lại tạo ra một nghĩa khác nhau. Trong từ điển Thiều Chữu có dẫn ra hai chữ nhật. Chữ thứ nhất () nghĩa là ngày, là mặt trời. Chữ thứ hai ( ) nghĩa là chạy ngựa  trạm.  Nhưng Lệ thì có đến ...17 chữ, chỉ xin dẫn ra vài chữ làm ví dụ: Chữ thứ 9 ( ) là nước mắt, chữ thứ 14 (   ) là con hàu, chữ thứ 17 (   ) là rực rỡ đẹp đẽ.  Do vậy, người cho lệ  là con hàu thì bảo Nhật Lệ là ngựa trạm qua bãi hàu. Mới nghe thấy có lý vì địa danh Quán Hàu nằm trên đường thiên lý vượt qua sông Nhật Lệ. Người khác hiểu lệ là nước mắt lại cho rằng Nhật Lệ là ngày buồn, ngày của nước mắt, rồi viện ra hai chuyện tình lâm li trong lịch sử để minh hoạ: Rằng năm 1044 vua  Lý Thái Tông đưa quân  vào đánh Chiêm Thành chém được vua Chiêm là Sạ Đẩu, bắt sống thứ phi của Sạ Đẩu là nàng Mỵ Ê đưa về Đại Việt. Đoàn chiến thuyền của Lý Thái Tông hành diện đến Lý Nhân, vua sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê sang hầu. Nàng phẩn uất, ngầm quấn chăn vào người rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Xác nàng trôi về phương nam, dạt vào sông Nhật Lệ...Lại vào năm 1306 tức 263 năm sau vụ Mỵ Ê, vua Trần Anh Tông muốn giữ hoà hiếu với Chiêm Thành bèn gả công chúa Trần Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Phải vâng lệnh cha lấy người mình không yêu, nàng Huyền Trân khóc suốt cuộc hành trình  từ Đại Việt vào đất Chiêm. Nước mắt nàng dâng đầy thành sông Nhật Lệ...Nhưng tuyệt đại đa số người ta giải thích Nhật Lệ (日 麗 ) là "Ngày Đẹp". Nghe ra không ổn, vì tên một con sông sao lại đưa đơn vị thời gian là ngày vào ?  Với lại muốn là ngày đẹp thì tính từ đẹp (Lệ) phải đứng trước danh từ ngày (Nhật) thành ra Lệ Nhật, cũng như tính từ thơm (Hương) đứng trước danh từ sông (Giang) để có Hương Giang vậy. Thực ra trong  văn phạm chữ Hán chữ "Lệ" có thể đóng nhiều vai. Khi là động từ nó chỉ sự phụ thuộc, kèm theo, liên quan. Khi là tính từ hoặc danh từ nó chỉ sự đối xứng, đẹp đẽ, rực rỡ (6). Nếu quan niệm chữ Lệ trong Nhật Lệ  là tính từ thì Nhật Lệ không phải là một từ kép để chỉ con sông, mà thành ra một câu có nghĩa: Mặt trời (thì) rực rỡ. Đối tượng quan sát ở đây là mặt trời nói chung. Vì đứng trên núi, đứng ở biển, hoặc bay trong không trung mà thấy mặt trời mọc đều nói được như thế. Cũng giống như người xưa viết 風 和 日 麗  (phong hoà nhật lệ) tức là gió (thì) êm, mặt trời (thì)  rực rỡ. Gió và mặt trời  ở đây cũng chung chung, không chỉ vào một nơi nào cụ thể. Do vậy tôi vẫn nghỉ rằng Nhật Lệ trong trường hợp này là một danh từ kép chỉ một con sông cụ thể ở thành phố Đồng Hới Quảng Bình. Nó được ghép bởi một danh từ đơn (Nhật) với một danh từ đơn khác (Lệ) và ngầm hiểu có đại từ sở hữu "chi"  ( ) ở giữa. Cũng như khi ta nói "nhân tài" ( 人才) hoặc "nhân lực" (人 力 ) là ta đã giản ước đi chữ "chi" ( ) của hai mệnh đề "nhân chi tài" và "nhân chi lực",  tức tài của người và sức của người.  Trong quá trình viết bài này tôi may mắn được ông Ngô Đức Thọ (7) đưa cho tham khảo quyển "Nhật Dụng từ điển" của Đài Bắc xuất bản 1990. Ở mục chữ Lệ () là danh từ, tác giả sách dẫn ra một câu thơ của Hồ Thiên Du: 日 之 麗 不 無 之 燭  ( nhật chi lệ bất vô chi chúc giả) nghĩa là : sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời thì không nơi nào là nó không chiếu đến được. Lấy ba chữ đầu 日 之 麗 (nhật chi lệ) và giản ước đi chữ  chi ( ),  ta có từ 日 麗  (nhật lệ) có nghĩa là SỰ RỰC RỠ CỦA ÁNH MẶT TRỜI. Hẳn là người xưa đã đứng ở bờ nam dòng sông  nhìn về hướng đông là cồn cát Bảo Ninh những lúc mặt trời mọc. Khi mặt trời nhô lên khỏi đụn cát thì con sông chạy theo hướng nam bắc lấp lánh sáng trên một chiều dài hàng trăm mét. Người Đồng Hới vẫn có cái thú ra bờ sông ngắm mặt trời mọc. Dẫu có đến ngàn lần thì cứ vẫn háo hức như là mới thấy lần đầu. Vâng, đấy là Nhật Lệ, là dòng sông làm nặng lòng nhiều tao nhân mạc khách của vùng đất miền Trung.

 

************

 

(1): Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh NXB Thuận Hoá 1994

(2): Lịch sử Việt Nam tập I-NXB KHXH 1976

(3): Đại Việt sử ký toàn thư NXB KHXH năm 1998

(4): Lịch sử Việt Nam tập I- nhiều tác giả NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp 1983.

(5): Sử ký Quảng Bình của Nguyễn Tú 1996

(6): Hán văn GKT tập I- NXB Đà Nẵng 1997của Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao.

(7): Ông Ngô Đức Thọ nguyên công tác ở Viện Hán Nôm , người đã thâm niên  trên 50 năm dịch chữ Hán. 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

17 nhận xét:

  1. Tháng 6 tôi có chuyến về miền Trung. Tôi yêu bình minh trên dòng sông Nhật Lệ và có một số tấm hình _ một dòng sông mang dấu ấn lịch sử nhưng lại hiền hòa đến lạ .

    Trả lờiXóa
  2. gioheomay
    Còn một sự lạ về con sông này là hướng chảy. Tất các các con sông ở miền trung đều chảy từ tây về đông (tức từ Trường Sơn về biển) Riêng sông Nhật Lệ lại gần như đi theo hướng nam - bắc.

    Trả lờiXóa
  3. Một bài viết công phu, dẫn chứng và lập luận logic, khoa học, lại mang nặng tình cảm của người con Nhật Lệ nên càng có sức thuyết phục.
    Ảnh đẹp và rất thơ. Mong sẽ có những tấm ảnh bình minh với ánh sáng lấp lánh rực rỡ.

    Trả lờiXóa
  4. Chắc xin phép được giới thiệu Bulukhin'blog với một chị làm về văn hóa vì có rất nhiều bài nói về nét văn hóa Việt và đây là những tư liệu mà chắc sẽ rất hữu ích cho tờ báo ấy ạ!

    Liệu có được không ạ?

    Trả lờiXóa
  5. *quynhloan028
    Chắc chắn là được nhưng khi sử dụng phải ghi nguồn.

    Trả lờiXóa
  6. Vẫn là ông bạn Bulukhin với những bài viết và dẫn chứng rất công phu, bác viết bài này là vẫn còn nặng tình với quê hương lắm, chắc chưa dễ dàng xuôi Nam được.
    Tôi cũng đã có dịp ngắm bình minh trên dòng Nhật Lệ, ngắm ngọn hải đăng về đêm ở Quảng Bình...

    Trả lờiXóa
  7. Anh viết bài này chặt chẽ và tình cảm sâu nặng quá. Em thiên về cách giải thích xuất phát từ "phong hoà nhật lệ", kiểu như tên khách sạn Bát Đạt (Q5) là từ "tứ thông bát đạt" (四通八達).

    Trả lờiXóa
  8. Gió rất yêu hình ảnh ngọn đèn được đặt trên một vật dụng dùng bắt cá trên dòng sông Nhật Lệ mà hình như dân địa phương gọi là cái "rớ" ( có thể Gió nhớ lầm) Đêm xuống ngọn đèn cô đơn giữa mênh mông sông nước, buổi sáng ra nhìn nó càng hiu hắt hơn .Bài viết của anh làm Gió hiểu hơn con sông mà mình dành nhiều tình cảm cho chuyến đi vừa qua ... Cảm ơn anh .

    Trả lờiXóa
  9. Cả dải miền Trung tên núi, tên sông, tên quận, tên huyện... sao nghe cứ mềm mại quá chừng.

    Trả lờiXóa
  10. Bạn gioheomay

    Sáng nay khác với thường lệ, Buluk và bà xã tản bộ rất chậm trên bờ Nhật Lệ để quan sát những chiếc rớ giàn, một nét chấm phá làm cho dòng sông không chỉ phẳng lặng mà còn ẩn tàng cuộc sống với bao số phận đầy rẫy nước mặt và nụ cười. Trong số 5 rớ giàn thì chỉ một rớ có đèn sáng ban đêm. Bốn chủ rớ kia không có đủ 10 triệu để hợp đồng với điện lực chôn cọc căng dây ra sông. Có điện sáng cá đóng đèn trong lưới nhiều hơn, điện quay tời để người đỡ vất vả. Nhưng ông chủ rớ có đèn kia bắt đầu rầu rĩ vì thu không bù chi. Trước kia thành phố ít đèn, đường bờ sông tối om nên đèn trên rớ có hiệu quả. Nay đèn đường sáng trưng, nhà hàng nổi vũ trường nổi đầy rẫy, lũ cá bị "đa đăng loạn mục", lượn lờ khắp nơi chứ không chịu đóng đèn của rớ nữa. Ông chủ rớ thở dài "thời buổi người khôn của khó mà anh"
    Chữ rớ bạn nhớ không sai. Từ điển Huỳnh Tịnh Của (người Nam Bộ) giải thích: Rớ là lưới có càng có gọng, có thể cất lên hạ xuống.
    Đại Từ điển tiếng Việt: Rớ là loại vó nhỏ dùng để bắt cá tôm.
    Vó: Dụng cụ gồm lưới mắc bốn góc vào bốn đầu gọng tre để cất hoặc để kéo tôm cá.
    Tấm ảnh của Gióheomay giúp Buluk không chỉ hiểu Nhật Lệ qua tầm chương trích cú mà còn hiểu thêm những kiếp người nổi trôi trên dòng sông ấy nữa. Cảm ơn bạn.

    Trả lờiXóa
  11. Gió đến Quảng Bình buổi chiều và ở khách sạn Nhật Lệ ...phía trước là dòng sông Nhật Lệ . Buổi tối ngồi trên những chiếc ghế đá cạnh dòng sông ngước nhìn mảnh trăng qua vòm lá đỏ quạch vì ánh đèn đường .QB lặng lẽ , Nhật Lệ cũng lặng lẽ cùng bao mảnh đời . Gió bị ám ảnh hình ảnh cái rớ ban đêm trên sông Nhật Lệ một cách lạ kì ... Cầm máy bấm nhiều nhưng chỉ chọn được 1 tấm.Vẫn mong có 1 lần trở lại anh bulukhin ạ

    Hôm nào có thời gian mời anh đọc vài cảm nhận của Gió về chuyến đi , về Huế , Hội An và Quảng Bình . Có thể trái với gì anh cảm không ?

    Đây là hai tấm ảnh Gió chụp sáng sớm trên sông NL

    Trả lờiXóa
  12. Đến Nhật Lệ lần sau chắc gioheomay sẽ
    ghi lại được nhiều hỉnh ảnh ở thành phố rất nhiều cát và nắng này.

    Trả lờiXóa
  13. Nhật Lệ, QB còn đẹp hơn nữa bởi còn có những thứ "quý hiếm" như chủ nhân blog này đây.

    Trả lờiXóa
  14. Cảnh bình minh trên sông Nhật Lệ đẹp quá!

    Bài viết của chú công phu quá, Những điều chú viết trong đây trước giờ hầu như con chưa đọc bao giờ...Ước gì con được đến đây 1 lần...nhưng công việc con cứ ngồi 1 chỗ chẳng đi đâu được cả. Hic

    Dạo này con bận BC nên chẳng lang thang Blog, hôm nay con mới ghé thăm chú một chút đây! Dạo này chú khỏe hông ah? Chúc chú có những ngày cuối tuần vui vẻ bên gia đình! Còn con thì...tuần này lại phải đi làm cả chủ nhật luôn rồi.

    Trả lờiXóa
  15. Em thì nghĩ đơn giản, Cái tên Nhật Lệ đã gợi một hình ảnh về dòng sông rất đẹp rồi.Cái tên Nhật Lệ đẹp , dòng sông đẹp và con sông quê hương thì còn đẹp không nơi nào sánh bằng nữa.

    Trả lờiXóa
  16. Hình như những người bạn Quảng bình em quen biết đều có một cách nhìn nhậnquê hương mình rất sâu sắc và trân trọng. Bài này thì em chỉ biết đọc và coi thêm những câu comment rất hay bên dưới.
    Em có một người bạn blog cũng người QB nhưng hiện nay thì sinh sống ở SG, tuy nhỏ tuổi nhưng rất thành công về công việc cùng một gia đình hạnh phúc, em ấy có cái tên rất hay là SA HUỲNH và có những khái niệm cùng sự yêu quý quê cha đất tổ cũng rất sâu nặng vô cùng.

    Trả lờiXóa