Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

SỰ TÍCH CHIẾC XE TRÂU CỦA PHÙNG QUÁN

                                                 Nhà thơ Phùng Quán

Sinh thời,  nhà thơ Phùng Quán lâu lâu từ Hà Nội vào Huế, ông vào thăm quê, thăm bạn, và thăm ...bồ ! Một hôm thấy ông mặc áo chàm, chân xỏ guốc mộc đứng đọc thơ trước một nhóm người ở chợ Bến Ngự (Huế), Bu mời ông về nhà (ở khu Trường An) chơi, đọc thơ, uống rượu. Những năm 80 của thế kỉ trước việc làm này kể như là mạo hiểm !!! Trước khi ra về Phùng Quán tặng Bu truyên ngắn "Như con cò vàng trong cổ tích". Hôm nay Bu chép lại bài Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán bên blog Quê Choa để cùng với nhà văn Nguyễn Quang Lập và các bạn nhớ về một nhà thơ tài hoa đầu thai nhầm thế kỉ....

Những  năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai nơi, một là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi đó là mình cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình. Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như  bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm. Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “ chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.

            Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm anh Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.

 Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng, anh nói Lê Nin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lê Nin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lê Nin tặng anh chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.

Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85- 86 chi đó, anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra  bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong hồi kí của một ông ở tù côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng  con đường lót xương các tù nhân, he he.

 Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu ( thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn  hái hoa Lêkima cài tóc. Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa Lêkima cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường chị vừa đi vừa hát. Anh đâu biết Lêkima là cây gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết Lêkima thực ra là cây Qủa trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu ( chắc khi đó bác Toàn cũng không biết cây Lêkima là cây gì): Mùa hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ/ Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng/ Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở… Chị Sáu đã hi sinh rồi,/Giọng hát vẫn như còn vang dội vào trái tim…Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.

Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập Lập mày bê chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi, nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng như chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu về  rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui đấy, chuyện hay lắm.

Anh kể đâu như năm 69-70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn. Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm, nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là cả một món tiền to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.

Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên xô, vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lê Nin. Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.

Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước XHCN, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.

Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau. Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị, nói anh mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở nơi khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về Lê Nin thế mới kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các nhà báo kéo nhau về Lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.

Chuyện nghiêm trọng.Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy, khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với đám nhà báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.

Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ báo thức và 50 chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít nhái.

Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến phút chót mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em họ đẩy chiếc xe đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.

Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.

 Ghi chú của Bu

Nguyên: Phạm Xuân Nguyên nhà lí luận phê bình văn học

Trấn Dần: Nhà thơ nổi tiếng và tai tiếng trong vụ Nhân văn giai phẩm

19 nhận xét:

  1. Hồi nhỏ mê cuốn "Tuổi thơ dữ dội" của Phùng Quán!

    Trả lờiXóa
  2. Lần đầu tiên Bu đọc Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phục ông sát đất, sau này mới biết ông bịa là chủ yếu, hehehe

    Trả lờiXóa
  3. Bác viết thật dí dỏm mà ..xúc động.

    Trả lờiXóa
  4. Bạn ơi, nhắc đến Phùng Quán với những tháng năm lên bờ xuống ruộng bởi sự trung thực và lòng yêu nước không đúng cách, bu tui ngậm ngùi và cay cay khóe mắt.

    Trả lờiXóa
  5. Đọc xong cũng thấy muốn khóc.
    Đúng là cái dở của mình che đi, cái hay của người khác lại tung chăn dậy sớm.(Câu này ý em nói về các bác lãnh đạo thời ấy....mà hình như thời này cũng y chang vậy)

    Trả lờiXóa
  6. Em cũng một lần may mắn được dự bữa cơm có bác Phùng Quán, vợ chồng nhà thơ Thu Bồn ở nhà ba mẹ em. Nhớ mãi phong thái của nhà văn.

    Trả lờiXóa
  7. Gió đọc câu chuyện về nhà thơ PQ ...tự dưng nghen ngào ..Cuộc đời viết của ông cũng cay đắng nhiều quá anh Bu nhỉ ...ngay cả cái giải do Lê-nin trao cũng gian nan quá chừng ... Cám ơn vì đã có ông

    Trả lờiXóa
  8. Người tài mà sinh chẳng hợp thời bác nhỉ!

    Trả lờiXóa
  9. Tại Huế , Bu đã mời Phùng quán uống rượu đọc thơ hai buổi, một buổi tại nhà Bu, một buổi tại nhà bạn ở đường Hồ Xuân Hương. Đường này khuất nhà cửa thưa thớt có thể giữ được bí mật ! Ông như cái động cơ chạy bằng rượu, sau khi rượu vào ông hoạt bát, nói chuyện rất có duyên. Ông đọc bài thơ TẠ trong tư thế quỳ, nghe sang sảng, người ông đầm đìa mồ hôi. Hỏi mệt lắm hả bác, ông bảo bằng một buổi đi cày!!

    Trả lờiXóa
  10. Nói về "tội trạng" của Phùng Quán thì lạ lắm. Ông bảo tớ làm bài thơ chống tiêu cực trong đó có ý nếu Đảng tổ chức đội quân diệt tiêu cực thì tui xin đi đầu. Người ta quy ông tội vô tổ chức, đi đầu phải là Đảng viên, do tổ chức phân công, chứ anh là cái đinh gì mà được đi dầu trong cái đoàn quân ấy ?? Hehehe huhuhu Đúng là dở cười dở khóc!!

    Trả lờiXóa
  11. Đầu thai nhầm thế kỉ là vậy mà !!

    Trả lờiXóa
  12. Em cũng nhớ bác ấy y như thế. Say trong men thơ đang dâng vì rượu.

    Trả lờiXóa
  13. Chuyện của bác Quán thì nhà em được nghe nhiều, như chuyệncâu cá trộm bên hồ Tây chẳng hạn, nhưng chưa được nghe chuyện mà bác Bu kể.
    Chuyện hay cực kỳ đấy Xin phép bác cho em "chôm vào" mục càphê cuối tuàn của báo em bác Bu nhé.

    Trả lờiXóa
  14. Bu tui chỉ viết vài lời phi lộ và trả lời comment, còn bài viết là của Nguyễn Quang Lập

    Trả lờiXóa
  15. Cám ơn anh Bu, entry rất thú vị, không biết nhiều về PQ, nhưng có người nói, chỉ cần biết bài "Lời mẹ dặn" là đủ thích Phùng Quán rồi ! thanks anh.

    Trả lờiXóa
  16. chép tặng bạn bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán


    LỜI MẸ DẶN

    Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
    Mẹ tôi thương con không lấy chồng
    Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
    Nuôi tôi đến ngày lớn khôn
    Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
    Ngày ấy tôi mới lên năm
    Có lần tôi nói dối Mẹ
    Hôm sau tưởng phải ăn đòn
    Nhưng không Mẹ tôi chỉ buồn
    Ôm tôi hôn lên mái tóc
    - Con ơi - Trước khi nhắm mắt
    Cha con dặn con suốt đời
    Phải làm một người chân thật.




    - Mẹ ơi chân thật là gì?
    Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
    Con ơi một người chân thật
    Thấy vui muốn cười cứ cười
    Thấy buồn muốn khóc là khóc.
    Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng không nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu.




    Từ đấy người lớn hỏi tôi:
    - Bé ơi, bé yêu ai nhất?
    Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
    - Bé yêu những người chân thật.
    Người lớn nhìn tôi không tin
    Cho tôi là con vẹt nhỏ
    Nhưng không! những lời dặn đó
    In vào trí óc của tôi
    Như trang giấy trắng tuyệt vời
    In lên vết son đỏ chói.


    Người làm xiếc đi giây thật khó
    Nhưng chưa khó bằng nhà văn
    Đi trọn đời trên con đường chân thật.


    Năm nay tôi hai mươi nhăm tuổi
    Đứa bé mồ côi thành nhà văn
    Đi trọn đời trên con đường chân thật.


    Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng không nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu




    Tôi muốn làm nhà văn chân thật
    Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
    Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
    Bút giấy tôi ai cướp giật đi
    Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

    Trả lờiXóa
  17. Cám ơn tấm thịnh tình của anh Bu
    regards

    Trả lờiXóa
  18. Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét

    Anh phải yêu giai cấp công nông, ghét bọn bóc lột chứ nói chung chung như ông Quán là phi chính trị, mơ hồ lập trường giai cấp, chết là phải thi sĩ ơi ....huhuhu!

    Trả lờiXóa